Soạn văn: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 7, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH SIÊU NGẮN
Bố cục
– Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh đêm thanh tĩnh
– Phần 2 (hai câu tiếp): Cảm nghĩ của tác giả
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1: Có người cho rằng bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần tuý tả cảnh, hai câu cuối là thuần tuý tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Trả lời:
– Ý kiến cho rằng hai câu đầu chỉ thuần túy tả cảnh hai câu sau tả tình là chưa xác đáng, bởi lẽ:
+ Đọc kĩ hai câu đầu ta sẽ thấy không thuần túy chỉ có cảnh
- Chữ sàng (giường ) gợi ra cảnh nhà thơ đang trằn trọc không ngủ được hoặc ngủ nhưng tỉnh dậy không sao ngủ lại được. Vậy nên hiểu theo cách này ta sẽ thấy chữ nghi được dùng rất xác đáng
- Chữ sương gợi màu trắng đem tới cảm giác lạnh chứa chan ý trữ tình trong cảnh vật
+ Hai câu sau:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
- Tâm trạng xúc động tình thơ của tác giả đã được nêu rõ
-> Bài thơ không đơn thuần là tức cảnh sinh tình như nhiều người vẫn nghĩ. Cái tình ở bài thơ vừa là nhân vừa là quả: vì không ngủ mà nhớ quê hương nhìn trăng sáng lại càng nhớ da diết hơn
Câu 2: Tuy không phải là bài thơ Đường luật song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối.
a. So sánh về mặt từ loại của các chữ tương ứng ở hai câu cuối để bước đầu hiểu thế nào là phép đối.
b. Phân tích tác dụng của phép đối ấy trong việc biểu hiện tình cảm quê hương của tác giả.
Trả lời:
a. Trong hai câu thơ cuối ta thấy có phép đối
– Cử đầu đối với đê đầu
– Vọng minh nguyệt đối tư cố hương
Số lượng các chữ, từ loại, cấu trúc ngữ pháp của các bộ phận tham gia đối đều giống nhau
b. Tác dụng của phép đối
– Biểu hiện cụ thể sinh động tình cảm quê hương
– cúi đầu nhìn thấy trăng cứ ngỡ là sương trên mặt đất rồi ngẩng đầu nhìn thấy vầng trăng. Trong cảm xúc cô độc lạnh lẽo. Tác giả lại cúi đầu suy ngẫm về quê hương
Các cử động ấy đã thể hiện sinh động rõ nét cuộc tư duy cảm xúc về quê hương
Câu 3: Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi) và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.
Trả lời:
– Hai dòng đầu diễn đạt một ý:
+ Ngỡ ánh trăng soi đầu giường là sương trên mặt đất
+ Từ nghi có tác dụng liên kết ý của hai câu
– Các động từ khác như: cử vọng, đê, tư đều có vai trò gắn chặt ý trong bài thơ
– Chủ ngữ ở đây bị lược bỏ chỉ có một chủ ngữ chung là chủ thể trữ tình. Tạo tính thống nhất mạch lạc trong cảm xúc của bài thơ
Luyện tập
Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu:
Đêm thu trăng sáng như sương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà
Dựa vào điều đã phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu theo nguyên thể hoặc theo thể thơ lục bát.
Trả lời:
– Nhận xét hai câu thơ dịch bài Tĩnh dạ tứ
Đêm thu trăng sáng như gương
Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà
+ Hai câu dịch khái quát được nội dung bài thơ nhưng không nêu hết được tâm trạng của tác giả
– Thử dịch thành thơ
Đầu giường ánh trăng sáng
Nghĩ mặt đất phủ sương
Ngắm nhìn vầng trăng sáng
Da diết nhớ cố hương
2. SOẠN VĂN CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH HAY NHẤT
Soạn văn: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
Trả lời câu 1 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Có người cho rằng bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần tuý tả cảnh, hai câu cuối là thuần tuý tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Lời giải chi tiết:
Có người cho rằng trong bài thơ này hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau tả tình. Nghĩ như vậy là do theo quán tính xúc cảnh sinh tình: vọng nguyệt hoài hương (ngắm trăng nhớ quê) quen thuộc xưa nay. Thật ra, đọc kĩ hai câu đầu ta thấy không hoàn toàn đơn thuần chỉ có cảnh:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương.”
(Ánh trăng sáng đầu giường
Ngỡ là sương mặt đất.)
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Chữ sàng (giường) gợi cho người dọc nghĩ rằng nhà thơ đang nằm trên giường mà trằn trọc không ngủ được hoặc đã ngủ rồi tỉnh giấc không ngủ lại được. Trong tình huống ấy, chữ “nghi” (ngỡ là) sử dụng thật chính xác, hợp tự nhiên. Chữ sương gợi màu trắng và cảm giác lạnh. Hai câu thơ trên không những chỉ có ánh trăng mà chứa chan ý vị trữ tình của sự vật trong cảnh.
Hai câu thơ sau:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
(Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê hương.)
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
+ Hai câu sau tình dâng trào cuồn cuộn để đọng lại thành nỗi sầu nhớ thương qua cụm từ: nhớ cố hương.
+ Cảnh được thể hiện như thế nào? Ngẩng đầu nhìn trăng sáng cả bầu trời cao lồng lộng và một vầng trăng sáng trong vằng vặc thanh tĩnh hiện ea trước mắt người đọc. Một đêm trăng thật đẹp song cũng thật cô đơn.
+ Mối quan hệ giữa cảnh và tình: Cảnh và tình trong bài thơ có mối liên hệ nhân quả, sự tác động qua lại. Vì trăng đẹp quá mà nhớ quê trằn trọc thao thức không ngủ được. Càng thao thức không ngủ càng thấy trăng đẹp hơn.
Tuy nhiên với bài thơ này, nói xúc cảnh sinh tình không đủ. Tình ở đây là nhân mà cũng là quả. Vì sao? Vì nhớ quê, trằn trọc thao thức không ngủ được nhìn trăng. Nhìn trăng lại càng nhớ quê nhiều hơn.
Trả lời câu 2 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Tuy không phải là bài thơ Đường luật song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối.
a. So sánh về mặt từ loại của các chữ tương ứng ở hai câu cuối để bước đầu hiểu thế nào là phép đối.
b. Phân tích tác dụng của phép đối ấy trong việc biểu hiện tình cảm quê hương của tác giả.
Lời giải chi tiết:
Không phải là một bài thơ Đường luật. Tĩnh dạ tử của Lí Bạch là một bài cổ tuyệt (tứ tuyệt cổ phong) nhưng cũng sử dụng phép đối”.
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Ở đây “cử đầu” đối với “đê đầu” và “vọng minh nguyệt” đối với “tư cố hương”. Đúng là số lượng chữ của các bộ phận tham gia đối bằng nhau, cấu trúc ngữ pháp của các bộ phận tham gia đối giống nhau và từ loại của các chữ tương ứng ở hai vế giống nhau, cần chú ý chỉ trong thơ cổ thể, “đầu” mới đối được với “đầu” (đối trùng thanh), còn trong thơ Đường luật thì không thể đối như thế được.
Tác dụng cửa phép đối ở đây nhằm biểu hiện cụ thể và sinh động tình cảm quê hương.
Trước khi “ngẩng đầu” tác giả đã “cúi đầu” vì có “cúi đầu” mới ngỡ ánh trăng là sương phủ mặt đất. Từ chỗ chỉ thấy ánh trăng ấy, ông đã “ngẩng đầu” để nhìn thấy cả bản thân vầng trăng. Và khi thấy vầng trăng cũng như mình cô độc lạnh lẽo, lập tức tác giả lại “cúi đầu” để suy ngẫm về quê hương. Các cử động “cúi đầu, ngẩng đầu, cúi đầu” liên tục ấy thể hiện sinh động cụ thể hoạt động của tư duy và cảm xúc nói rõ hơn là của tình cảm quê hương.
Trả lời câu 3 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi) và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.
Lời giải chi tiết:
Bài thơ ngắn chỉ gồm 20 chữ mà có tới 5 động từ: nghi (ngỡ), cử (ngẩng), vọng (nhìn), đê (cúi), tư (nhớ). Thực ra nếu theo dõi thứ tự của bốn động từ này, chúng ta có thể nhận ra mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động nhưng có thể dễ dàng khẳng định, chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả. Năm động từ tạo thành một mạch cảm xúc vận động rất nhanh, có thể hiện thực hoá lại bằng văn xuôi như sau: nhân vật trữ tình (nhà thơ) tỉnh dậy (hoặc đang mơ màng ngủ) thì nhận ra ánh sáng đang lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng vì không biết là sương hay là trăng, nhà thơ ngẩng lên như là một hành động để mà xác nhận. Nhưng rồi chính cái khoảnh khắc ngẩng đầu kia lại gợi về trong lòng tác giả nỗi niềm của người xa xứ. Hành động cúi đầu như là đang cố nén đi cái cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng.
Tĩnh dạ tứ với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện.Bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.
Luyện tập
Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu:
Đêm thu trăng sáng như sương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà
Dựa vào điều đã phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu theo nguyên thể hoặc theo thể thơ lục bát.
Lời giải chi tiết:
Bài thơ của Lí Bạch diễn tả nỗi nhớ thương quê nhà của một người con đi xa trong đêm tĩnh lặng. Do đó hai câu thơ trên chưa diễn tả đúng nỗi nhớ khi tác giả cúi đầu và nghĩ về quê hương. Ánh trăng gợi nhớ về quê hương nhưng cái cúi đầu của nhân vật trữ tình như một nỗi hổ thẹn với chính lòng mình khi lâu ngày không thể trở về cố hương. Vì vậy, em có thể viết lại bài thơ theo thể lục bát như sau:
Ánh trăng soi rọi đầu giường
Ngỡ ngàng mặt đất sương giăng lối mờ
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng vương
Cúi đầu sao thấy nhớ thương quê nhà
Bố cục: 2 phần
– Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh đêm thanh tĩnh.
– Phần 2 (hai câu tiếp): Cảm nghĩ của tác giả.
Soạn văn: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (hay nhất))
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
* Bố cục: 2 phần
– Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh đêm thanh tĩnh
– Phần 2 (hai câu tiếp): Cảm nghĩ của tác giả
Câu 1 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Hai câu thơ đầu thiên về tả cảnh, hai câu sau thiên về tả tình
+ Hình ảnh ánh trăng suốt hiện ở “sàng tiền” thể hiện sự thao thức, trăn trở không ngủ được của nhà thơ: Lí Bạch yêu trăng, nhớ quê
+ Câu thơ thứ 2: Ánh trăng tràn ngập không gian đồng nghĩa với việc vị trí ngắm trăng thay đổi từ sàng tiền tới song tiền: tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến
⇒ Hai câu thơ đầu, từ cảnh nhận ra tình
– Hai câu thơ sau: nỗi niềm nhớ cố hương hiện hữu rõ nét
+ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng: Vầng trăng thanh tĩnh, sáng dịu hiền hiện ra, đây là đêm trăng đẹp nhưng yên tĩnh
→ Mối quan hệ nhân quả giữa cảnh và tình tác động qua lại: Vì trăng sáng nên không ngủ được, không ngủ được càng thấy trăng sáng hơn, đẹp hơn
Câu 2 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Hai câu thơ cuối giống hệt nhau về: cấu trúc ngữ pháp, từ vựng, số lượng chữ
Động từ | Danh từ | Động từ | Tình từ | Danh từ | |
Câu 3 | Cử | đầu | vọng | minh | nguyệt |
Câu 4 | Đê | đầu | tư | cố | hương |
– Tác dụng phép đối: Làm nổi bật hình ảnh, sự vật, giúp tác giả thể hiện rõ dụng ý của mình
Câu 3 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Các động từ được sử dụng trong bài Tĩnh dạ tứ: nghi (ngỡ), vọng (nhìn), đê (cúi), tư (nhớ)
Từ các động từ này ta có thể nắm được mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động, nhưng có thể khẳng định rõ chủ thể trữ tình và chủ thể hành động
+ Nhân vật trữ tình tỉnh dậy thì nhận thấy ánh sáng lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng không rõ sương hay trăng, nhà thơ ngẩng lên như thể xác nhận
+ Khoảnh khắc ngẩng đầu gợi lên trong lòng tác giả niềm nhớ thương quê cũ
+ Hành động cúi đầu như cố nén đi nguồn cảm xúc đang trào dâng
→ Các động từ được sử dụng trong bài là ngọn nguồn của mạch cảm xúc của nhà thơ.
Luyện tập
Có người dịch hai câu thơ của Lý Bạch sang hai câu thơ lục bát:
“ Đêm thu trăng sáng như gương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”
Nếu dịch thành hai câu thơ này sẽ không làm sáng tỏ được tấm lòng cố hương cũng như không thể làm người đọc nhìn thấy cảnh đẹp của đêm trăng thanh tĩnh
+ Hơn nữa cách dịch đó làm làm ta hình dung được những băn khoăn, trằn trọc của nhà thơ trong đêm trăng sáng thanh tĩnh.
+ Các cử động của nhân vật trữ tình dường như không xuất hiện (cử đầu, đê đầu)
→ Các động từ được sử dụng để thể hiện hành động và tâm trạng của nhân vật trữ tình.