Soạn văn: Quan Âm Thị Kính
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 7, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Quan Âm Thị Kính”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN QUAN ÂM THỊ KÍNH SIÊU NGẮN
Tóm tắt: Quan Âm Thị Kính
Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “thấy sự bất thường”): Thị Kính xén râu mọc ngược dưới cằm cho chồng
– Phần 2 (tiếp đó đến “bóp chặt trong tay”): Thị Kính bị nhà chồng vu oan là giết chồng, nàng không thể minh oan và cùng cha là Mãng Ông trở về nhà
– Phần 3 (còn lại): Thị Kính từ biệt cha mẹ, quyết định giả dạng nam nhi tu hành.
Giá trị nội dung
Vở chèo “Quan âm Thị Kính” nói chung và trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống. Vở chèo và trích đoạn đã thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1: Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.
Trả lời:
Phần tóm tắt ở trên.
Câu 2: Đọc kĩ đoạn trích Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó.
Trả lời:
Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích.
Câu 3: Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai?
Trả lời:
– Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có 5 nhân vật Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Thị Kính, Mãng ông
– Hai nhân vật chính thể hiện xung đột kịch là Sùng bà và Thị Kính
– Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến; Thị Kính thuộc nhân vật nữ chính, đại diện cho phụ nữ lao động người dân thường
Câu 4: Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này?
Trả lời:
– Khung cảnh đầu đọan trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng tuy không phổ biến với nhân dân như cảnh thiếp nón chàng tơi, chồng cày vợ cấy, nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình
– Qua lời nói và cử chỉ ở đây có thể thấy Thị Kính rất ân cần dịu dàng với chồng , thương yêu chồng , tình cảm với chồng rất tự nhiên chân thật
Câu 5: Thảo luận ở lớp: Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành động và ngôn ngữ của Sùng bà đối với Thị Kính.
Trả lời:
Liệt kê và nêu nhận xét ngôn ngữ , hành động của Sùng bà với Thị Kính:
– Hành động của Sùng bà thô bạo tàn nhẫn: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính khụy xuống
– Ngôn ngữ của Sùng bà toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả, trút cho Thị Kính đủ tội, không cần hỏi rõ sự tình, không cần biết phải trái vu oan cho Thị Kính giết chồng:
+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công/ Tuồng bay mèo mả gà đồng
+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc/ Mày là con nhà cua ốc
+ Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu
→ Lời nói của mụ phản ánh quan hệ giai cấp , bộc lộ thái độ tàn nhẫn phũ phàng giọng khinh thị người nghèo, mâu thuẫn giai cấp trong vấn đề hôn nhân bộc lộ sâu sắc
Câu 6: Trong đoạn trích, mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu oan với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?
Trả lời:
– Trong đoạn trích này Thị Kính kêu oan 5 lần
– Trong đó bốn lần kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng nhưng đều vô ích:
+ Giời ơi! Mẹ ơi oan cho con lắm mẹ ơi!
+ Oan cho con lắm mẹ ơi!
+ Oan cho thiếp lắm chàng ơi!
+ Mẹ xét tình cho con, oan cho con lắm mẹ ơi!
– Lần thứ 5 nàng kêu oan với cha đẻ thì nhận được sự cảm thông nhưng đó là sự cảm thông trong đau khổ và bất lực, Thị Kính vẫn bị đuổi ra khỏi nhà chồng
Câu 7: Thảo luận ở lớp: Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm điều gì tàn ác? Theo em, xung đột kịch trong đoạn trích này thế hiện cao nhất ở chỗ nào? Vì sao?
Trả lời:
– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà Sùng ông Sùng bà còn làm một điều tàn ác là: dựng nên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã, thậm chí dùng cả hành động vũ phu
– Đây cũng là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất vì sự bố trí dồn dập xô đẩy kéo dài những tình tiết trên sân khấu mang nhiều ý nghĩa:
+ Trên sân khấu chỉ còn hai cha con lẻ loi
+ Thị Kính bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha bị hành hạ khinh bỉ
+ Cảnh cha con ôm nhau khóc thể hiện sự oan khuất trong bất lực
Câu 8: Qua cử chỉ và ngôn ngữ của nhân vật, hãy phân tích tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khố trong xã hội cũ không?
Trả lời:
– Tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà:
+ Đau đớn vì bằng chứng của tình chung thủy bây giờ là dấu vết của sự thất tiết
+ Thị Kính đang bơ vơ trước cái vô định của cuộc đời, không biết đi về đâu
– Việc Thị Kính trá hình nam tử đi tu hành có ý nghĩa giải thoát
– Con đường ấy có hai mặt
+ Tích cực: muốn sống ở đời để tỏ rõ con người đoan chính
+ Tiêu cực: cho mình khổ do số kiếp tìm cửa phật để tu tâm
– Nhưng đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì trong thời đại này người phụ nữ chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh vẫn cam chịu nhẫn nhục, Thị Kính có đấu tranh nhưng chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muốn nhật nguyệt sáng soi.
Luyện tập:
Câu 1: Tóm tắt ngắn gọn đoạn trích “Nỗi oan hại chồng”.
Trả lời:
Tóm tắt đoạn trích Nỗi oan hại chồng
Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
Câu 2: Thảo luận ở lớp: Nêu chủ đề của trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”. Em hiểu thế’ nào về thành ngữ “Oan Thị Kính”?
Trả lời:
+ Thể hiện những phẩm chất tốt đẹp và nỗi oan bi thảm bế tắc của Thị Kính cũng là của không ít phụ nữ trong xã hội phong kiến
+ Phản ánh những đối lập giai cấp biểu hiện trong xung đột hôn nhân và gia đình thời phong kiến
– Thành ngữ Nỗi oan hại chồng dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức cùng cực không thể nào giãi bày được.
2. SOẠN VĂN QUAN ÂM THỊ KÍNH CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN QUAN ÂM THỊ KÍNH HAY NHẤT
Soạn văn: Quan Âm Thị Kính (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Tóm tắt:
Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm.
Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.
Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Đọc kĩ trích đoạn và chú thích.
Câu 3 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.
– Tất cả các nhân vật trên đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Nhưng có hai nhân vật chính thể hiện xung đột là Sùng bà và Thị Kính. Sùng bà thuộc loại nhân vật “mụ ác”, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến; Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính”, đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường.
Câu 4 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gần gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “thiếp nón, chàng tơi”, “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân.
– Qua lời và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy Thị Kính rất ân cần, dịu dàng với chồng: khi chồng ngủ, dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn lo lắng về sự dị hình chẳng lành.
⟶ Thị Kính là người vợ thương chồng. Tình cảm đối với chồng rất chân thật, tự nhiên.
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Hành động Sùng bà tàn nhẫn, thô bạo: “dúi đầu Thị Kính xuống”, “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”, “không cho Thị Kính phân bua”, “dúi tay đẩy Thị Kính khụy xuống”.
– Ngôn ngữ của Sùng bà toàn những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả. Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội, không cần hỏi rõ sự tình, không cần biết phải trái. Mụ muốn đuổi Thị Kính vì lí do khác hơn lí do giết chồng. Cụ thể:
+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Tuồng bay mèo mả gà đồng.
+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc.
+ Trứng rồng lại nở ra rồng – Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
⟶ Lời lẽ là vốn từ ngữ để phân biệt chuyện “thấp – cao” của mụ thật giàu có. Lúc này không phải là quan hệ mẹ chồng – nàng dâu nữa mà là quan hệ giai cấp. Lời lẽ của mụ qua các làn điệu hát sắp, nói lệch, múa hát sắp chợt càng bộc lộ thái độ trấn áp tàn nhẫn phũ phàng, giọng khinh thị người nghèo. Mâu thuẫn giai cấp trong vấn đề hôn nhân phong kiến rất sâu sắc.
Sùng bà là một trò trong một lớp nhưng rất tiêu biểu cho một loạt vai trong chèo cổ: Vai mụ ác (hợm của, khoe dòng giống…) Mụ là kẻ tạo ra “luật” và “lệ” trong gia đình.
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trong trích đoạn, năm lần Thị Kính kêu oan. Trong đó có bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng:
– Giời ơi Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ
– Oan cho con lắm mẹ ơi!
– Oan cho thiếp lắm chàng ơi!
– Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!
Bốn lần kêu oan trên đều vô ích. Chồng nhu nhược, mẹ chồng cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan của nàng càng đầy.
Lần kêu oan thứ năm, lần cuối là kêu với Mãng ông (cha đẻ). Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Cuối cùng nỗi oan không được giải và Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Câu 7 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng ông và Sùng bà còn làm một điều tàn ác là: dựng lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu với cha con họ.
– Đây là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất. Trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con lẻ loi. Thị Kính thì bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha bị hành hạ, khinh bỉ. Cảnh cha con ôm nhau khóc là sự oan khuất mà bất lực. Sự bố trí dồn dập, xô đẩy, kéo dài những tình tiết kịch của sân khấu đây mang nhiều ý nghĩa.
Câu 8 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Qua cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà: đau đớn vì bằng chứng của tình thủy chung bây giờ là dấu vết của sự thất tiết. Thị Kính đang bơ vơ trước cái vô định của cuộc đời, không biết sẽ về đâu.
Việc Thị Kính “trá hình nam tử đi tu hành” có ý nghĩa là giải thoát. Con đường giải thoát có hai mặt:
– Tích cực: muốn sổng ở đời để tỏ rõ con người đoan chính.
– Tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp, tìm cửa Phật để tu tâm.
Đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh, cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Thị Kính có đấu tranh nhưng mới chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muốn “nhật nguyệt sáng soi”.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Vào một buổi tối, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh rồi quạt cho chồng. Trong lúc đó, nàng đã phát hiện ra dưới cằm chồng có cái râu mọc ngược. Nàng nghĩ đây là điềm chẳng lành, nên đã cầm dao khâu định xén nó đi. Chưa kịp xén thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy và hô hoán lên. Sùng ông và Sùng bà vốn không ưa Thị Kính nên đã đay nghiến, mắng nhiếc và đổ cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính một mặt kêu oan, van xin nhưng Sùng ông và Sùng bà đã gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang và làm cho hai cha con phải nhục nhã, khổ sở. Quá đau khổ vì uất ức, Thị Kính lạy cha mẹ rồi giả trai, chọn kiếp tu hành, nương nhờ ở cửa Phật.
Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Chủ đề của đoạn trích nỗi oan hại chồng: đoạn trích thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của Thị Kính và những nỗi oan, bế tắc của nàng cũng như của không ít người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó phản ánh những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến. Thành ngữ “Oan Thị Kính” đã được phổ biến rộng rãi trong đời sống hằng ngày của nhân dân lao động. Mọi người dùng thành ngữ này để nói lên những nỗi oan khuất quá mức, cùng cực không thể nào giải toả được của con người nói chung.
Soạn văn: Quan Âm Thị Kính (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu đến “thiếp xén tày một mực”): Thị Kính xén chiếc râu mọc ngược dưới cằm cho chồng.
– Phần 2 (tiếp theo đến “về cùng cha con ơi”): Nhà chồng một mực vu cho Thị Kính giết chồng, nàng không thể minh oan, cùng cha là Mãng ông trở về nhà.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Thị Kính từ biệt cha mẹ, quyết định giả dạng nam nhi tu hành.
Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Tóm tắt:
Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm
Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.
Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích.
Câu 3 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trong đoạn trích có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.
– Nhân vật Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật tạo xung đột chính của đoạn trích:
+ Sùng bà: kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị thời phong kiến
+ Thị Kính: nhân vật nữ chính, tiêu biểu cho người dân thường, vốn chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ
Câu 4 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Cảnh đầu đoạn trích là cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách
→ Gợi lên không khí đầm ấm, hạnh phúc
– Cử chỉ và lời nói của nhân vật Thị Kính:
+ Thị Kính dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ngủ
+ Thị Kính chăm chú nhìn chồng và phát hiện sợi râu mọc ngược
+ Thị Kính lấy dao định xén chiếc râu đó
→ Hành động của Thị Kính hết sức tự nhiên, chứng tỏ tình cảm chân thành và hết mực yêu chồng
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Hành động và ngôn ngữ Sùng bà là hiện lên là người kẻ tàn nhẫn, độc ác, coi thường người lao động hiền lành:
– Hành động:
+ Dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên ( kiểu hạ nhục người khác)
+ Chửi mắng Thị Kính, không cho nàng được thanh minh
+ Hất tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống đất, nhất quyết trả Thị Kính về gia đình
– Lời nói:
+ Đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính
+ Lời mắng nhiếc của Sùng bà luôn nhấn mạnh tới sự đối lập đến giai cấp, sự không “môn đăng hộ đối” giữa hai gia đình
→ Mụ Sùng là người tàn nhẫn, độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên nên bà coi thường người khác, nhất là người lao động
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Thị Kính kêu oan 5 lần
– 4 lần kêu oan đầu tiên đến mẹ chồng và chồng (Oan con lắm mẹ ơi! Oan cho thiếp lắm chàng ơi!)
+ Lời kêu oan không được thấu tỏ do:
+ Thiện Sĩ là kẻ bạc nhược, đớn hèn còn mụ Sùng thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính
– Lần thứ năm lời kêu oan của Thị Kính nhận được sự cảm thông, thấu hiểu của Mãng ông
+ Mãng ông dù biết con gái bị oan nhưng chỉ là người nông dân nghèo không thể giúp đỡ con gái
Câu 7 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, mụ Sùng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính nhục nhã, ê chề.
+ Lừa Mãng ông sang “ăn cữ cháu” sau đó vu oan cho Thị Kính “nửa đêm cầm dao giết chồng”
+ Gọi Mãng ông sang sau đó dúi ngã Mãng ông để cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà
– Hình ảnh hai cha con ôm nhau của những người chịu oan, đau khổ hoàn toàn bất lực
→ Tình cảnh thống khổ của những người nông dân nghèo trước sự cay nghiệt của bọn thống trị.
Câu 8 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà nàng hát:
“Thương ôi… gối lẻ loi”
– Các cặp từ đối lập bấy lâu- bỗng, sắt cầm- chăn gối lẻ loi… : sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau chuyển đổi đột ngột
+ Từ cuộc sống hòa hợp đầm ấm đến tình cảnh chia lìa
→ Bị đẩy khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hóa bơ vơ giữa cái vô định giữa cái vô định cuộc đời.
– Thị Kính giả trai vào tu trong chùa càng khẳng định nàng không có lối thoát
+ Quan niệm về định mệnh, cho rằng sự khổ cực là do số kiếp nên quay về cửa Phật tìm lối giải thoát, tu tâm tích đức.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Tóm tắt:
Thiện Sĩ ngồi đọc sách thì thiu thiu ngủ, Thị Kính ngồi khâu bên cạnh nhìn thấy chồng có chiếc râu mọc ngược thì lấy dao khâu định xén đi. Thiện Sĩ chợt tỉnh thì hô toáng lên. Rồi mặc cho Thị Kính hết lời van xin, Sùng ông, Sùng Bà đánh đuổi Thị Kính về nhà Mãng ông. Sau khi làm cho hai bố con Mãng ông nhục nhã, khổ sở hai vợ chồng nhà Sùng bỏ vào nhà mặc cho hai bố con ôm nhau khóc rồi đưa nhau về.
Câu 2 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ đối lập giai cấp:
– Thành ngữ “oan Thị Kính để nói về nỗi oan khiên không thể giãi bày, thanh minh
– Mở đầu trích đoạn là khung cảnh gia đình ấm cúng, lời nói và cử chỉ của Thị Kính làm bật lên hình ảnh người phụ nữ
– Thị Kính rời khỏi nhà Sùng bà trong mối đau khổ và bất lực, tan vỡ hạnh phúc.
– Thị Kính giả trai đi tu, vừa để tự thanh minh vừa để thoát tục