Soạn văn: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 7, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Sự giàu đẹp của Tiếng Việt”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN SỰ GIÀU ĐẸP CỦA TIẾNG VIỆT SIÊU NGẮN
Tóm tắt: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt
Bài nghị luận “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” là bài nghị luận đầy sức thuyết phục về vẻ đẹp, giá trị của ngôn ngữ dân tộc bằng sự phân tích, chứng minh sắc bén của tác giả Đặng Thai Mai.
Giá trị nội dung
Bài văn đã chứng minh sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tiếng Việt, với những phẩm chất bền vững và giàu khả năng sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của nó, là một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc
Bố cục
– Đoạn 1 (Người Việt Nam ngày nay …. thời kì lịch sử): nêu nhận định tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy
– Đọan 2 (còn lại): chứng minh cái đẹp và sự giàu có phong phú (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm ,từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của tiếng Việt
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1: Tìm bố cục của bài và nêu ý nghĩa của mỗi đoạn
Trả lời:
- Đoạn 1 ( Người Việt Nam ngày nay …. thời kì lịch sử): nêu nhận định tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy
- Đọan 2 (còn lại) chúng minh cái đẹp và sự giàu có phong phú ( cái hay ) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm ,từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của tiếng Việt
Câu 2: Hãy cho biết nhận định “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong
đoạn đầu bài văn này như thế nào?
Trả lời:
– Câu mở đầu khẳng định giá trị và địa vị của tiếng Việt từ đó đưa ra luận điểm bao trùm : Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay
– Tiếp đó giải thích ngắn gọn nhận định
– Tác giả giải thích gọn rõ ràng về đặc tính đẹp, hay của tiếng Việt
Câu 3: Để chứng minh cho vẻ đẹp tiếng Việt, tác giả đã đưa ra những chứng cứ gì và sắp xếp những chứng cứ ấy như thế nào?
Trả lời:
– Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp
+ Ý kiến của những người nước ngoài : ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói , nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ phương Tây
+ Hệ thống nguyên âm phụ âm phong phú giàu thanh điệu
+ Uyển chuyển cân đối nhịp nhàng về mặt cú pháp
+ Từ vựng dồi dào giá trị thơ nhạc họa
– Tiếng Việt là thứ tiêng hay:
+ Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt
+ Có sự phát triển qua các thời kì lịch sử về cả hai mặt từ vựng và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt
Câu 4: Sự giàu có và khả năng phong phú của Tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện nào?
Em hãy tìm một số dẫn chứng cụ thể để làm rõ các nhận định của tác giả.
Trả lời:
– Tác giả giải thích về vẻ đẹp của tiếng Việt:
+ Tiếng Việt là thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng thanh điệu
+ Cái hay của tiếng Việt: tế nhị uyển chuyển trong cách đặt câu , có đầy đủ khả năng diễn đạt tình cảm tư tưởng của con người thỏa mãn nhu cầu phát triển của đời sống văn hóa xã hội
– Phẩm chất đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi lên cảm xúc chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm sự hài hoà về thanh điệu nhịp điệu
– Cái hay là ở khả năng diễn đạt tình cảm tư tưởng phản ánh đời sống phong phú tinh tế chính xác
– Hai mối quan hệ ấy gắn bó chặt chẽ với nhau: cái đẹp phản ánh cái hay, cái hay tạo ra cái đẹp
Câu 5: Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này là gì?
Trả lời:
– Điểm nổi bật trong nghệ thuật lập luận ở bài văn này là phép lập luận chứng minh chặt chẽ giàu sức thuyết phục
+ Lập luận chặt chẽ: đưa ra nhận định ngay ở mở bài tiếp đó giải thích mở rộng các nhận định ấy sau đó dùng chứng cứ chứng minh
+ Các dẫn chứng toàn diện bao quát không xa vào quá cụ thể tỉ mỉ buộc người đọc có những hiểu biết minh họa cho dẫn chứng
Luyện tập
Câu 1: Sưu tầm, ghi lại những ý kiến nói về sự giàu đẹp, phong phú của Tiếng Việt và nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Trả lời:
– Phạm Văn Đồng: Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật.
– Bác Hồ: Tiếng nói là một thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải gìn giữ nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.
– Nhà báo Nguyễn An Ninh: Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi. […] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình …
– Đặng Thai Mai: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.
Câu 2: Tìm năm dẫn chứng thể hiện sự giàu đẹp của Tiếng Việt về ngữ âm và từ vựng trong các bài văn, thơ đã học hoặc đọc thêm ở các lớp 6, 7.
Trả lời:
+ Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghêng
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
( Lượm – Tố Hữu)
+ Thường thường vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám, chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
(Mùa xuân của tôi – Vũ Bằng)
+ Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
+ Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Để trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên – Xuân Diệu)
+ Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(Cảnh khuya – Hồ Chí Minh)
2. SOẠN VĂN SỰ GIÀU ĐẸP CỦA TIẾNG VIỆT CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN SỰ GIÀU ĐẸP CỦA TIẾNG VIỆT HAY NHẤT
Soạn văn: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Cả hai truyện đều có thể lập thành luận điểm.
Phải có sự tiếp cận đối tượng toàn diện và sâu sắc thì mới hiểu biết đó tượng đó.
Học sinh tự lập luận theo ba phần:
Mở bài; Thân bài và Kết bài. Đây chỉ là một đoạn trích nên bố cục không hoàn chỉnh. Có thể chia thành các phần như sau:
– Phần mở đầu (đoạn 1, 2): Nêu luận điểm khái quát.
– Phần khai triển (còn lại): Vẻ đẹp và sức sống của tiếng Việt. Phần này gồm hai ý:
+ Từ “Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó” đến “rất ngon lành trong những câu tục ngữ”: Tiếng Việt trong con mắt người nước ngoài;
+ Từ “Tiếng Việt chúng ta gồm có” đến hết: Những yếu tố tạo nên vẻ đẹp và sức sống của tiếng Việt.
Câu 2 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Nhận định “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” được giải thích khá rõ ràng qua một cấu trúc lặp có nhịp điệu: “nói thế có nghĩa là nói rằng…” gồm hai vế. Ở vế thứ nhất, tác giả nêu những đặc trưng cơ bản của tiếng Việt (“hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu”), vế thứ hai tiếp nối vế trước, nêu khả năng của tiếng Việt trong việc “diễn tả tình cảm, tư tưởng và thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kì lịch sử”.
Câu 3 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp trước hết ở mặt ngữ âm.
– Ý kiến của người nước ngoài: Ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.
– Hệ thống nguyên âm và phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh)
– Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.
– Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa.
– Tiếng Việt là một thứ tiếng hay.
– Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt.
Câu 4 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện:
– Tiếng Việt có hệ thống nguyên âm phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh).
– Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.
– Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, hoạ.
– Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt.
– Có sự phát triển qua các thời kì lịch sử về cả hai mặt từ vựng và ngữ pháp. Có khả năng thích ứng với sự phát triển liên tục của thời đại và cuộc sống.
Câu 5 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Điểm nổi bật trong nghệ thuật lập luận ở bài văn này là phép lập luận chứng minh chặt chẽ, giàu sức thuyết phục:
– Lập luận chặt chẽ: đưa nhận định ngay ở phần mở bài, tiếp đó giải thích và mở rộng nhận định ấy, sau đó dùng các chứng cứ để chứng minh.
– Các dẫn chứng được dẫn khá toàn diện, bao quát, không sa vào những dẫn chứng quá cụ thể, tỉ mỉ. Nhưng chính vì thế người đọc phải có những hiểu biết cụ thể để minh họa cho chứng cứ.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng ta giàu bởi đời sống của chúng ta muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta… Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều khó nói…”
(Phạm Văn Đồng – Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt).
– “Hai nguồn giàu đẹp của tiếng Việt là tiếng nói của quần chúng nhân dân và ngôn ngữ văn học mà các nhà thơ lớn đã nâng lên đến mức cao. Tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân lao động, trong chiến đấu, trong quan hệ xã hội, cụ thể, sinh động, có hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu: Tiếng nói ấy kết đọng lại rất hay, rất đẹp trong tục ngữ và ca dao…”
(Xuân Diệu – Tâm sự với các em về tiếng Việt).
Câu 2 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– Về mặt ngữ âm, từ vựng ta thường bắt gặp trong chương trình Ngữ văn 6, 7 những câu thơ, đoạn văn giàu chất thơ, chất nhạc và mang đậm chất hội họa:
+ Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghêng
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
Ấy là những câu thơ đầy chất nhạc trong bài thơ Lượm của Tố Hữu.
+ “Thường thường vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám, chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”.
Ấy là những câu văn đầy chất thơ trích trong văn bản Mùa xuân của tôi của tác giả Vũ Bằng.
+ Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Ấy là những câu thơ đầy chất họa trong bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.
Soạn văn: Sự giàu đẹp của Tiếng Việt (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
+ Đoạn 1 (Từ đầu … đến “thời kì lịch sử”): Nêu nhận định tiếng Việt là 1 thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy.
+ Đoạn 2 (Còn lại): Chứng minh cái đẹp và sự giàu có, phong phú (cái hay) của tiếng Việt về các mặt: ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của Tiếng Việt.
Câu 2 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Nhận định “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” được giải thích cụ thể như sau:
– Câu mở đầu khẳng định giá trị và địa vị của tiếng Việt từ đó đưa ra luận điểm cơ bản bao trùm: “Tiếng Việt có những đặc sắc … hay”.
– Tiếp đó giải thích ngắn gọn về nhận định ấy.
– Tác giả giải thích gọn mà rõ ràng về đặc tính đẹp và hay của tiếng Việt.
Câu 3 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp trước hết ở mặt ngữ âm.
– Ý kiến của người nước ngoài: Ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.
– Hệ thống nguyên âm và phụ âm phong phú, giàu thanh điệu (6 thanh)
– Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.
– Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa.
– Tiếng Việt là một thứ tiếng hay.
– Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt.
Câu 4 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở các phương diện:
– Từ vựng, cấu tạo từ phong phú, giàu hình ảnh.
– Cú pháp uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng.
– Có sự phát triển qua các thời kì.
Câu 5 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
Điểm nổi bật trong nghệ thuật lập luận ở bài văn này là phép lập luận chứng minh chặt chẽ, giàu sức thuyết phục:
– Lập luận chặt chẽ: đưa nhận định ngay ở phần mở bài, tiếp đó giải thích và mở rộng nhận định ấy, sau đó dùng các chứng cứ để chứng minh.
– Các dẫn chứng được dẫn khá toàn diện, bao quát, không sa vào những dẫn chứng quá cụ thể, tỉ mỉ. Nhưng chính vì thế người đọc phải có những hiểu biết cụ thể để minh họa cho chứng cứ.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng ta giàu bởi đời sống của chúng ta muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta… Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều khó nói…”
(Phạm Văn Đồng – Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt).
– “Hai nguồn giàu đẹp của tiếng Việt là tiếng nói của quần chúng nhân dân và ngôn ngữ văn học mà các nhà thơ lớn đã nâng lên đến mức cao. Tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân lao động, trong chiến đấu, trong quan hệ xã hội, cụ thể, sinh động, có hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu: Tiếng nói ấy kết đọng lại rất hay, rất đẹp trong tục ngữ và ca dao…”
(Xuân Diệu – Tâm sự với các em về tiếng Việt).
Câu 2 (trang 37 sgk ngữ văn 7 tập 2):
– Về mặt ngữ âm, từ vựng ta thường bắt gặp trong chương trình Ngữ văn 6, 7 những câu thơ, đoạn văn giàu chất thơ, chất nhạc và mang đậm chất hội họa:
+ Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghêng
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
Ấy là những câu thơ đầy chất nhạc trong bài thơ Lượm của Tố Hữu.
+ “Thường thường vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám, chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”.
Ấy là những câu văn đầy chất thơ trích trong văn bản Mùa xuân của tôi của tác giả Vũ Bằng.
+ Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Ấy là những câu thơ đầy chất họa trong bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.