Soạn văn: Chuyện người con gái Nam Xương
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 9, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG SIÊU NGẮN
Tóm tắt: Chuyện người con gái Nam Xương
Vũ Thị Thiết là người con gái xinh đẹp nết na, tư dung tốt đẹp. Nàng lấy Trương Sinh làm chồng. Hạnh phúc không bao lâu thì chàng bị bắt đi lính. Chồng vừa đi đầy tuần thì nàng sinh con. Bà mẹ vì nhớ con mà dần sinh ốm rồi chết. Vũ Nương chăm sóc và lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Năm sau Trương Sinh trở về, nghi ngờ đức hạnh của vợ vì câu nói ngây thơ của đứa con. Vũ Nương gieo mình xuống sông để tỏ lòng. Vũ Nương được Linh Phi cứu giúp cho ở lại cung điện dưới nước. Một hôm, chàng ngồi bên đèn dầu, đứa con chỉ vào cái bóng trên tường nhận làm cha. Trương Sinh mới nhận ra mình đã nghi oan cho vợ.
Phan Lang là người cùng làng do một lần cứu giúp Linh Phi được Linh Phi báo ân. Phan Lang gặp Vũ Nương dưới cung điện. Vũ Nương nói rõ sự tình cho Phan Lang nghe. Phan Lang về kể lại sự tình cho Trương Sinh biết. Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương. Vũ Nương được giải oan nhưng không trở về nhân gian.
Bố cục
– Phần 1: Từ đầu … cha mẹ đẻ mình: Cuộc sống của Vũ Nương khi lấy Trương Sinh
– Phần 2: Qua năm sau … trót đã qua rồi: Câu chuyện oan khuất của Vũ Nương
– Phần 3: Còn lại: Vũ Nương được giải oan
Giá trị nội dung
– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
– Niềm cảm thương cho số phận bi kịch của họ đòng thời lên án tố cáo các lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, các hủ tục hà khắc trong chế độ phong kiến đương thời.
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1: Tìm bố cục của truyện
Trả lời:
– Phần 1 (từ đầu đến “như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc sống của Vũ Nương khi được gả về nhà Trương Sinh cho đến trước khi Trương Sinh trở về.
– Phần 2 (tiếp theo đến “nhưng việc trót đã qua rồi”): Số phận oan khuất của Vũ Nương.
– Phần 3 (đoạn còn lại): Vũ Nương được giải oan.
Câu 2: Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Ở từng hoàn cảnh, Vũ Nương bộc lộ những đức tính gì?
Trả lời:
Vũ Nương là nhân vật trung tâm của truyện. Để khắc hoạ vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, tác giả đã đặt nhân vật này vào những hoàn cảnh khác nhau để miêu tả.
– Trước hết, tác giả đặt nhân vật vào mối quan hệ vợ chồng trong cuộc sống hằng ngày: “Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.”; trong hoàn cảnh này, Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”.
– Tiếp đến, tác giả đặt Vũ Nương vào trong tình huống chia li để nhân vật này bộc lộ tình nghĩa thắm thiết của mình với chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.”.
– Hoàn cảnh thứ ba: xa chồng, nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già; trong hoàn cảnh này, Vũ Nương là một người vợ thuỷ chung, yêu chồng tha thiết: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”, một người mẹ hiền, dâu thảo, ân cần, hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”.
– Hoàn cảnh Vũ Nương bị chồng nghi oan. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, nhưng không có kết quả. Lúc bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đành mượn dòng nước sông quê để giãi tỏ tấm lòng trong trắng. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự.
=> Tóm lại, bằng cách đặt nhân vật vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau, tác giả đã khắc hoạ đậm nét một Vũ Nương hiền thục, một người vợ thuỷ chung, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì cha mẹ, gia đình, đồng thời cũng là người phụ nữ coi trọng danh dự, phẩm hạnh, quyết bảo vệ sự trong sạch của mình.
Câu 3: Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
Trả lời:
– Nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh mình.
– Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …
Câu 4: Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện?
Trả lời:
Trên cơ sở cốt truyện có sẵn trong kho tàng truyện cổ tích (Vợ chàng Trương), tác giả đã sáng tạo lại, sắp xếp, đưa thêm những yếu tố mới để câu chuyện trở nên hấp dẫn, đầy tính bất ngờ, mang ý nghĩa mới sâu sắc. Tác giả đã dẫn dắt câu chuyện có mở đầu, diễn biến, cao trào, thắt nút, cởi nút, kết thúc, kết hợp với nghệ thuật xây dựng lời thoại nhân vật sinh động, giàu kịch tính và lời dẫn chuyện giàu tính biểu cảm. Trong đó, các đoạn đối thoại, độc thoại của nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng, chứng tỏ nghệ thuật dựng truyện đặc sắc của tác giả. Đặc biệt là đoạn nói về nỗi oan khuất của Vũ Nương:
– Tình huống truyện bất ngờ, căng thẳng
– Sự phát triển tâm lí nhân vật hợp lí: khởi đầu, đỉnh điểm
– Chi tiết cái bóng xuất hiện đẩy kịch tính lên đến cao trào.
Câu 5: Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
– Những yếu tố truyền kỳ trong truyện là: chuyện nằm mộng của Phan Lang, Chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa của Linh Phi,… chuyện lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, rồi “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”.
– Ý nghĩa:
+ Làm hoàn chỉnh phẩm chất đẹp đẽ vốn có của Vũ Nương – một người ở thế giới khác vẫn khao khát phục hồi danh dự.
+ Tạo cái kết có hậu.
+ Thể hiện ước mơ của nhân dân: người tốt được minh oan và đền trả xứng đáng.
+ Thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
Luyện tập
Hãy kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em.
Trả lời:
Vũ Nương là người con gái thùy mị nết na, Trương Sinh đem lòng yêu mến nên cưới nàng về. Chưa được bao lâu, Trương Sinh đi lính, để lại mẹ già và đứa con chưa kịp chào đời cho Vũ Nương chăm sóc. Ở nhà, Vũ Nương chăm lo thuốc thang cho mẹ chồng, khi mẹ mất nàng lo ma chay chu đáo cho mẹ, còn chăm sóc cả đứa con thơ. Tới khi Trương Sinh trở về, đứa con không chịu nhận bố và nói rằng đã có bố khác thì lúc này chàng sinh nghi và trách mắng, đuổi Vũ Nương đi. Dù Vũ Nương đã hết lời minh oan nhưng Trương Sinh không tin theo, cuối cùng, nàng tắm gội sạch sẽ và ra bến Hoàng Giang tự tử. Cảm động trước tấm lòng của nàng, thần Linh Phi đã mang nàng về thủy cung, ở đây nàng được gặp Phan Lang- người hàng xóm. Nàng nhờ Phan Lang chuyển lời về cho Trương Sinh rằng hãy lập đàn giải oan cho nàng bên bến Hoàng Giang. Về phần mình, Trương Sinh về sau hiểu ra chuyện khi đứa con chỉ vào chiếc bóng và nhận đó là cha. Chàng lập đàn giải oan cho Vũ Nương, nàng trở về giữa dòng, nói vài điều rồi biến mất.
2. SOẠN VĂN CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG HAY NHẤT
Soạn văn: Chuyện người con gái Nam Xương (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Phần 1 (từ đầu… cha mẹ đẻ mình): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh, phẩm hạnh của Vũ Nương trong thời gian xa cách
– Phần 2 (tiếp… trót đã qua rồi) : Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương
– Đoạn 3 (còn lại) Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương
Câu 2 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Tác giả khắc họa vẻ đẹp tâm hồn Vũ Nương, đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác nhau để miêu tả
– Trong mối quan hệ vợ chồng trong cuộc sống hằng ngày, nàng không để xảy ra mối bất hòa
– Tiếp đến, tác giả đặt Vũ Nương vào trong tình huống chia li: khi tiễn chồng đi lính, nàng bày tỏ sự thương nhớ, mong chồng bình yên
– Khi vắng chồng, Vũ Nương là một người vợ thủy chung, người mẹ hiền, dâu thảo, hết lòng vì gia đình
+ Chăm sóc bé Đản
+ Lo thuốc thang cho mẹ chồng khi đau ốm, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất
– Khi bị nghi oan, Vũ Nương cố thanh minh để chồng hiểu nhưng không được
+ Nàng chọn cái chết để minh oan cho tấm lòng trinh bạch của mình
→ Nhân vật Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu thương chồng con hết mực
– Nhân vật Vũ Nương hiện lên là người phụ nữ hiền thục, một người vợ thủy chung, yêu thương chồng con, phụ nữ coi trọng danh dự, nhân phẩm trong sạch của mình
Câu 3 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Nỗi oan khuất của Vũ Nương do nhiều nguyên nhân đưa đến:
– Nguyên nhân trực tiếp do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán, Trương Sinh không cho Vũ Nương cơ hội trình bày thanh minh
– Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến
+ Xã hội bất công, thân phận phụ nữ bấp bênh, mong manh, bi thảm
+ Không được bênh vực, chở che còn bị đối xử bất công
Câu 4 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện kịch tính, lôi cuốn.
+ Những chi tiết hé mở, chuẩn bị thắt nút đến khi nút thắt được tạo ra cho truyện trở nên hấp dẫn, sinh động
+ Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật khiến câu chuyện trở nên sinh động
– Cách khắc họa tâm lí, tính cách nhân vật (lời Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng…)
Câu 5 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Những yếu tố truyền kì:
– Chuyện nằm mộng của Phan Lang
– Chuyện Phan Lang và Vũ Nương dưới động của Linh Phi… lập đàn giải oan
+ Vũ Nương hiện lên ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ lúc ẩn, lúc hiện “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”
– Tác giả đã sử dụng cách đưa yếu tố kì ảo vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực
Tạo hiệu quả nghệ thuật về tính chân thực của truyền kì vào câu chuyện kết hợp với các yếu tố tả thực
Tạo ra một thế giới ước mơ, khát vọng của nhân dân về sự công bằng, bác ái
Soạn văn: Chuyện người con gái Nam Xương (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Đoạn 1 (từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
– Đoạn 2 (“Qua năm sau… nhưng việc trót đã qua rồi”): Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
– Đoạn 3 (phần còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giải oan.
Câu 2 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong các hoàn cảnh khác nhau.
– Cảnh 1: Trong cuộc sống vợ chồng, nàng “giữ gìn khuôn phép”.
– Cảnh 2: khi tiễn chồng đi lính. Trong lời dặn dò đầy tình nghĩa của Vũ Nương: nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về.
– Cảnh 3: khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo.
– Cảnh 4: khi bị chồng nghi oan.
+ phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình.
+ nói lên nỗi đau đớn, thất vọng
+ Hành động tự trẫm mình
=> Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, lại đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng.
Câu 3 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Nguyễn nhân gián tiếp:
+ Chiến tranh phong kiến.
+ Chế độ gia trưởng, trọng nam khinh nữ.
+ Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương có phần không bình đẳng.
– Nguyễn nhân trực tiếp:
+ Do chồng vô học đa nghi, hay ghen và gia trưởng, độc đoán.
+ Do lời nói của đứa trẻ ngây thơ, chứa đầy những dữ kiện đáng ngờ.
=> Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến. Người phụ nữ bị đối xử một cách bất công, vô lí; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ và sự hồ đồ, vũ phu của người chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình.
Câu 4 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa, có tính chất quyết định đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho truyện trở nên hấp dẫn và sinh động hơn.
– Truyện có nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa quá trình tâm lí và tính cách nhân vật.
Câu 5 (trang 51 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
– Những yếu tố kì ảo:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế;
+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn tràng giải nỗi oan cho nàng ở bến Hoàng Giang lung linh, huyền ảo, rồi bỗng chốc “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.
– Ý nghĩa:
+ Làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời.
LUYỆN TẬP
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết tính chồng đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép không để xảy ra bất hòa.
Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chỉ mong ngày chồng trở về mang theo hai chữ bình yên.
Chồng ra lính được một tuần thì Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm đã trôi qua, bà mẹ chồng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng hết lòng săn sóc cơm cháo thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Bệnh mỗi ngày một nặng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trở lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con đi thăm mồ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ dành, con ngây thơ nói: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói. chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chảng bao giờ bế Đản cả”. Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lên cho hả giận. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng mắng nhiếc đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nếu đoan trang, trinh bạch xin được làm ngọc Mị Nương, làm cỏ Ngu mĩ; nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diều quạ…
Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Chẳng bao lâu sau, một đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỗng đứa con chỉ chiếc bóng in lên vách mà nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa'”. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.
Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm hao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh, Phan chợt nghĩ đến chuyện mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà Hồ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết đuối đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói: “Đâv là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa”. Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.
Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triêu Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có nhiều mĩ nhân, áo quần thướt tha, tóc búi xễ, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy đến gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được các nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố hương, mồ mả tiền nhân,… Vũ Nương khóc…
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoa vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn giải oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.
Nhận được chiếc hoa vàng, Trương Sinh thốt lên: “Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi…”. Sinh làm đàn tràng, đốt cây đòn thần ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiện về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông.”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa…”, tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất.