Soạn văn: Nghị luận trong văn bản tự sự
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 9, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Nghị luận trong văn bản tự sự”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ SIÊU NGẮN
Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự
Câu 2: Tìm hiểu các đoạn trích
- Căn cứ vào định nghĩa, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên
- Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc thế nào?
– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?
– Luận cứ và lập luận như thế nào?
– Các câu trong văn bản thường sử dụng là loại câu gì?
Trả lời:
Đoạn 1: Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao
a.
– Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…
– Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.
– Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.
– Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
– Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.
Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.
b. Luận điểm
+ Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương … Đây là luận điểm có tính chất đặt vấn đề.
+ Vợ tôi không ác, nhưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác. Đây là luận điểm có tính chất phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận. Các luận chứng và lí lẽ được đưa ra: một người đau chân….; khi người ta khổ quá thì…
+ Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Đây là luận điểm kết luận, kết thúc lập luận.
⟹ Với việc lập luận như trên, tác giả đã “kể được” câu chuyện về nỗi giằng xé, trăn trở, bi kịch bên trong con người; khẳng định về quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời. Đồng thời, phác ra được thực trạng nhân sinh cùng khổ trong bối cảnh xã hội đầu thế kỉ XX.
Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu thì; vì thế… cho nên, sở dĩ… là vì; khi A… thì B… Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn những chân lý.
Đoạn 2:
a. Qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đôi thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, quan trọng nhất là người ta phải trình bày lý lẽ, chứng lý, nhân chứng, vật chứng… sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.
b.
– Lập luận của Thúy Kiều
+ Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê ghớm, cay nghiệt như mụ
+ Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái (Đây là kiểu câu khẳng định).
– Lập luận của Hoạn Thư:
+ Thứ nhất: mình là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.
+ Thứ hai: mình đã đối xử rất tôt với cô khi cô chép kinh ở “Quan Âm Các”.
+ Thứ ba: mình và cô đều là cánh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được …
+ Thứ tư: dù sao mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.
– Hình thức: Thúy Kiều sử dụng hình thức câu khẳng định, càng … càng => Khẳng định tội ác của Hoạn Thư.
Luyện tập
Câu 1: Lời văn trong đoạn trích (a) mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?
Trả lời:
Trong đoạn trích Lão Hạc nêu trên, đó là lời của ông giáo, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Câu 2: Ở đoạn trích (b), mục I.1 Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời? Hãy tóm tắt nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.
Trả lời:
Lập luận của Kiều thế hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ , và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên 4 ” luận điểm”:
– Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).
– Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đôi xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chảng đuổi theo (kể công)
– Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung , chắc gì ai nhường cho ai.
– Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).
Với lập luận trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế rất khó “xử”:
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
2. SOẠN VĂN NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ HAY NHẤT
Soạn văn: Nghị luận trong văn bản tự sự (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
Câu 2 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích :
– Đoạn (a) : Đoạn trích “Lão Hạc” :
…nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
– Đoạn (b) : Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
+ Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) :
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
+ Lập luận của Hoạn Thư :chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,… nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng :
Rằng : “Tôi chút phận đàn bà
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”
Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự : Làm nội dung tự sự mạch lạc, khúc chiết. Tăng tính triết lí cho câu chuyện, tô đậm tính cách nhân vật.
LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Câu 2 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Ở đoạn trích (b), mục I.1, trình tự lập luận của Hoạn Thư :
– Phận đàn bà, ghen tuông thường tình : xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, tôi lớn (hại người) chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê (chồng chung).
– Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn.
– Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.
Soạn văn: Nghị luận trong văn bản tự sự (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
Những câu có tính chất lập luận:
– Đoạn 1: Đoạn trích Lão Hạc
+ Nếu ta không cố tình hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…
+ Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi
+ Một người quá khổ thì người ta chẳng còn nghĩ được đến ai nữa
+ Mình biết vậy nên mình chỉ buồn chứ không nỡ giận
– Đoạn 2:
+ Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi
+ Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình
+ Mình biết vậy nên chỉ buồn chứ không nỡ giận
Đoạn lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
Lập luận của Kiều:
+ Xưa nay đàn bà có mấy người cay nghiệt, ghê gớm
+ Càng cay nghiệt càng nhiều oan trái
Lập luận của Hoạn Thư thể hiện ở tám dòng:
+ Đàn bà chuyện ghen tuông là bình thường, hiển nhiên
+ Khẳng định việc đối xử tốt với cô khi cô chép kinh ở Quan Âm các
+ Thứ ba: hai người phụ nữ không thể chung chồng nên không nhường cho nhau được
+ Dù sao mình gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô
– Với lập luận sắc bén của Hoạn Thư, Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư.
– Đoạn trích (1 ), để khắc họa cuộc đối thoại ngầm diễn ra trong ý thức của nhân vật ông giáo về cách nhìn đời, nhìn người
– Tác giả để cho nhân vật này tự đánh giá về vợ mình, rằng “vợ tôi không ác”, để lý giải cho tâm trạng “chỉ buồn chứ không nỡ giận”
Các luận điểm:
+ Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương
→ Luận điểm có tính chất đặt vấn đề
– Các câu trong văn bản tự sự thường là kiểu câu trần thuật, miêu tả
– Các từ ngữ thường dùng trong lập luận văn bản là những từ ngữ có tính chất khái quát, tổng hợp
LUYỆN TẬP
Bài 1 (trang 139 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Đoạn trích (a) lời của nhân vật ông giáo- người kể chuyện xưng “tôi”, một trí thức
– Ông giáo thuyết phục bạn đọc, thuyết phục về điều cố tìm hiểu những người xung quanh để cảm thông, yêu thương họ
– Nếu có ai vì quá khổ mất khả năng cảm thông, đồng cảm với người khác thì ta cũng không nên vì thế mà giận họ
Câu 2 (trang 139 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi
+ Hoạn Thư nói về lẽ thường: phụ nữ ghen tuông là chuyện bình thường
+ Hoạn Thư từng nương tay với Kiều khi cho nàng chép kinh, khi Kiều bỏ trốn đã không đuổi theo
+ Hoạn Thư cũng khẳng định chuyện lấy chồng chung thì không tránh khỏi việc ghen tuông, nghi kị
→ Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư vì “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”