Soạn bài: Viết bài làm văn số 7: Văn miêu tả sáng tạo
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 6, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Viết bài làm văn số 7”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN VIẾT BÀI LÀM VĂN SỐ 7: VĂN MIÊU TẢ SÁNG TẠO SIÊU NGẮN
Đề 1: Tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em.
Trả lời:
A, Mở bài: giới thiệu quanh cảnh phiên chợ
B, Thân bài:
– Miêu tả bao quát
+ ồn ào, náo nhiệt, đông đúc,…
+ nhiều màu sắc
– Miêu tả cụ thể:
+ các dãy hàng bán trong chợ: các mặt hàng, hình dáng, màu sắc, mùi vị đặc biệt của chợ,.
+ cảnh mua bán trong chợ: có thể tả một vài cảnh tiêu biểu
+ các hoạt động khác: ăn uống, trò chơi,…
……
C, Kết bài: cảm xúc của bản thân
Đề 2: Từ bài văn “Lao xao” của Duy Khánh, em hãy tả lại khu vườn trong buổi sáng đẹp trời.
Trả lời:
A, Mở bài: giới thiệu khu vườn trong buổi sáng đẹp trời
B, Thân bài:
– Tả bao quát
+ nhìn từ xa đến gần
+ không khí trong lành, hương thơm thoang thoảng của các loài hoa
– Tả chi tiết
+ các loài cây ăn quả….
+ các loài hoa…..
+ cây cảnh, ao cá….
+ chim chóc nô đùa, hót líu lo
+ ong bướm bay về dập dờn
– Sự chăm sóc của con người
+ tưới cây
+ bón phân
….
C, Kết bài: cảm xúc của bản thân
Đề 3: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của em
Trả lời:
A, Mở bài: giới thiệu hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng
B, Thân bài:
– Ngoại hình:
+ Tiên ông xuất hiện trong làn khói trắng và hương thơm ngào ngạt của các loài hoa.
+ Là một cụ già râu tóc bạc phơ, vẻ mặt phúc hậu, tay chống gậy trúc.
+ Giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp…
– Tính tình:
+ Thương yêu, giúp đỡ người nghèo khổ…
+ Căm ghét, trừng trị kẻ xấu xa, độc ác…
– Phép thuật:
+ Có phép thần thông biến hóa.
+ Đi mây về gió, thoắt biến, thoắt hiện.
C, Kết bài: cảm nghĩ của bản thân
Đề 4: Tả một nhân vật có hành động và ngoại hình khác thường
Trả lời:
A, Mở bài: giới thiệu nhân vật định miêu tả
B, Thân bài:
– Tả những đặc điểm về ngoại hình:
+ Người đó bao nhiêu tuổi, làm nghề gì?
+Vóc dáng như thế nào?
+Gương mặt, mái tóc,… có nét gì nổi bật khiến em ấn tượng?
– Tả những đặc điểm về tính tình:
+Sôi nổi, nhiệt tình hay điềm đạm, chín chắn…?
+Dễ hoà đồng, thân thiện với mọi người hay lạnh lùng, khó gần…?
– Tài năng có gì khác thường, khiến em ấn tượng?
C, Kết bài: cảm nghĩ của bản thân
2. SOẠN VĂN VIẾT BÀI LÀM VĂN SỐ 7: VĂN MIÊU TẢ SÁNG TẠO CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN VIẾT BÀI LÀM VĂN SỐ 7: VĂN MIÊU TẢ SÁNG TẠO HAY NHẤT
Soạn văn: Viết bài làm văn số 7 (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
Đề 1: Tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em.
* Mở bài: Giới thiệu phiên chợ ý ở đâu? Vào ngày nào? (Chợ Canh, vào ngày 15 hàng tháng).
* Thân bài:
– Không gian: thoáng đãng, những cơn gió nhè nhẹ lươt qua.
– Khi mặt trời nhô dần lên
– Các cô bán cá cười đùa vui vẻ với khách.
– Mấy bác hàng rau gọi í ới người mua.
– Các chị bán hoa quả thì luôn tay cân những túi hoa quả đẹp và chất lượng…
– Những người đi chợ họ trò chuyền ríu rít, họ mặc cả thật điêu luyện để có những thứ mình thích nhưng với giá rẻ hơn với người khác.
– Tầm trưa, chợ vãn, các cô bác lại xếp những gì còn chưa bán hết để vào thúng chở về.
…
* Kết bài: Cảm xúc của em đối với phiên chợ đó ra sao?
Bài làm tham khảo
Tờ mờ sáng, vài ánh dương hồng le lói đang cố giương mình len sâu vào lớp sương đêm dày đặc,vài bước chân người đi trên con đường đất làm phá tan bầu không khí tĩnh mịch bí ẩn của buổi đêm. Xa xa, lục tục vài bà hàng nước ngồi đun cái bếp lửa than để kịp nấu nước chè sớm
Mấy bà hàng cá đã ra ngồi bến từ nửa đêm để chờ mẻ cá mới cho được giá. Trên phía mép đường, những hàng thịt với bao nhiêu nào thịt heo, thịt bò, thịt gà,… đã được dọn từ rất sớm để mấy bà đi chợ sớm về kịp bữa cơm sáng…
Trời sáng dần, hương nếp từ chõ đồ sôi bay thoang thoảng từ đầu ngõ chợ như lôi kéo mấy bà buôn hàng cá, hàng thịt ra từ buổi sớm chưa có gì lót dạ. Chợ bắt đầu đông và náo nhiệt, từ các xóm dưới nào rau, nào củ, nào quả… các thứ hàng nằm trong mẹt, thúng được các bà buôn chuyển đi vào chợ. Cả khu chợ rộn lên, bắt đầu cuộc đấu tranh khẩu khí quyết liệt của người mua lẫn kẻ bán, có khi bớt 1 thêm 2 đồng bạc, cũng có mấy bà rộng tay vừa giá là lấy ngay không phải kì kèo, cũng có những người xem hàng chậc lưỡi rồi bỏ đi, để mặc sau lưng lời xầm xì chẳng rõ là mắng thầm hay nói nhảm của mấy bà buôn. Lũ trẻ nhỏ đi học sớm, được vài đồng bạc dắt nhau ùa vào chợ lựa mua các thứ quà bánh, cũng có đứa chỉ đưa mắt nhìn thèm thuồng và bàn tán vài câu rồi bỏ đi…
Qua giữa buổi, chợ bắt đầu thong thả, người đi chợ sớm tản sang các ngả rời khỏi chợ, những hàng cá, hàng thịt, hàng rau vừa sáng còn tươi rói và nhảy tanh tách trong mẹt giờ đã hết sạch nhờ những đôi tay và đôi mắt lựa chọn kĩ tính của các bà nội trợ đảm đang. Trong chợ chỉ còn vài bà hàng ế phải ngồi lại cầu trời sao cho còn mấy bà nội trợ ngủ trễ mà phải chịu tay lấy mấy bó rau, con cá hàng ế cho vừa buổi chợ. Các bà hàng nước gom mấy hòn than cháy tàn cố nhen nhúm cho được ngọn lửa nhỏ giữ cho nước âm ấm chờ các thực khách sang buổi trưa nắng ghé hàng làm ngụm nước…
Trưa, mặt trời lên qua đỉnh đầu, nắng gắt, nóng bức và mùi ôi nồng làm cả khu chợ như đắm chìm trong bầu không khí đặc quánh, hàng họ đã dẹp dần từ giữa buổi. Chợ đã tan.
Đề 2: Từ bài văn “Lao xao” của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời.
* Mở bài: Giới thiệu khu vườn đó (miệt vườn của ông nội em trồng ở quê).
* Thân bài:
– Cảnh vật bao quát khu vườn.
– Trong vườn có rất nhiều loại cây:
+, Cây na đang đến mùa ra quả.
+, Qủa sầu riêng thơm phưng phức .
+, Những trái chôm chôm đỏ
…
+, Em như lạc vào xứ sở của các loại trái cây.
* Kết bài: Cảm xúc của em đố với vườn cây (vui vẻ và mỗi lần thích là em lại ra vườn hái quả ăn).
Bài làm tham khảo
Thứ bảy tuần trước, tôi cùng bố mẹ về quê thăm ông bà. Tôi rất háo hức vì đã hơn một năm rồi tôi chưa về thăm ông bà. Tôi nhớ ông bà, nhớ căn nhà nhỏ và cả khu vườn thân yêu.
Sáng chủ nhật, tôi chạy ra vườn chơi. Quả là một buổi sáng đẹp trời! Bầu trời trong vắt, không một gợn mây, Mặt Trời uy nghi ngự trị trên cung điện lộng lẫy những tia nắng ngắm nhìn vạn vật.
Bây giờ tôi mới cảm thấy khu vườn này quả là đẹp và có lẽ đẹp nhất vào những buổi ban mai như thế này. Anh Trống Cồ đã cất tiếng gáy, sân nhà rộn rã nhưng trong vườn còn náo nhiệt hơn. Chị Mái mơ dẫn dàn con đi kiếm mồi. Đàn gà con chạy líu ríu quanh chân mẹ, đôi chân phải bước dài ra trông vừa buồn cười, vừa tội nghiệp. Mẹ con chị cặm cụi tìm mồi quanh những đám cỏ còn đẫm sương. Đàn vịt lạch bạch chạy ra ao rỉa lông, rỉa cánh. Tôi ngồi chễm chệ trên đống rơm, ngắm nhìn khu vườn kỳ diệu.
Cây cối lóng lánh sương đêm nên đang rạng rỡ tắm ánh nắng thu chan hòa.
– Chào anh ổi! Khỏe chứ?
– Tôi vẫn khỏe! Còn chú thế nào, chú Mít?
Thì ra cây cối trong vườn đang hỏi thăm nhau. Tôi phải công nhận vườn ông bà tôi nhiều cây thật đấy. Tôi thích nhất là cây ổi, thân cây khẳng khiu, nứt nẻ. Tuy hình dáng vậy thôi nhưng đến mùa ổi cây lại cho những trái chín vàng ươm, trái ương phơn phớt xanh rờn và ngọt lịm nữa. Dường như trông thấy tôi, nó xòa cành lá như muốn chào mừng.
Cuối vườn, các luống hoa trao đổi hương thơm và khoe sắc. Giàn thiên lý trổ hoa vàng lốm đốm đang nằm dưới nắng trên chiếc giàn xinh xắn mà ông tôi làm. Hoa lan nở từng chùm trắng xóa. Chùm hoa còn đọng lại những giọt sương long lanh như được một bàn tay khéo léo nào đó chạm trên cánh hoa những hạt châu ngọc. Những ngọn lửa cháy lên hập hùng trong tán lá xanh của hàng râm bụt. Hoa hồng kiêu sa. hoa cẩm chướng mùi thơm nồng nồng. Ảnh sáng mạ vàng những đóa cúc giản dị làm cho nó sáng rực lên như những viên kim cương.
Quanh các luống hoa, bướm bay chập chờn. Ong mật, ong vò vẽ đánh lộn nhau để kiếm mật. Rồi Chích chóc bắt đầu huyên náo, vang vang khắp khu vườn là tiếng hót du dương của một cô Họa Mi. “Chích! Chích! Chích!”. Chim Chích Bông chăm chỉ bắt sâu trên từng chiếc lá. Bỗng có tiếng cãi nhau chí chóe từ đâu đó:
– Miếng này là của tớ mà! – Một con bồ câu kêu lên.
– Không! Của tớ chứ! Tớ nhìn thấy trước! – Con còn lại nhanh nhảu.
Thì ra chúng đang cãi nhau vè chuyện thức ăn! Ông tôi bảo sáng nào chúng cũng cãi cọ om sòm kể từ khi ông làm chiếc chuồng chim xinh xắn bằng gỗ thông này. Ông thường xuyên đặt thức ăn vào chuồng cho những chú chim mỗi buổi sớm. Trên tán lá, những chú gõ kiến leo dọc thân cây bưởi mỏ lách cách trên vỏ.
Chà! Bây giờ tôi mới cảm nhận được vẻ đẹp thật sự của khu vườn này. Một cảnh vắng mà dung hòa nghìn thứ âm nhạc: Tiếng gió thổi vi vu, chim khẽ gù dưới lá, lá rì rào…
Một tuần trôi qua thật là nhanh. Nhưng trong suốt thời gian này tôi đã hiểu biết thêm về thiên nhiên và nhất là tôi lại thêm yêu khu vườn của tôi.
Đề 3: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của em.
* Mở bài: Giới thiệu về người định tả.
* Thân bài:
– Tả về hoàn cảnh em gặp ông Tiên (giấc mơ).
– Hình dáng: cao.
– Khuôn mặt phúc hậu.
– Đôi mắt sáng ngời.
– Miệng ông luôn nở nụ cười
– Tóc và râu bạc như cước
– Tay luôn cầm cái phất trần đi cứu giúp mọi người.
– Giọng nói ông nhẹ nhàng
– Hành động: Ông Tiên đã giúp một em bé có thuốc để về cứu mẹ (tả thêm một vài chi tiết).
* Kết bài:
Cảm nghĩ của em đối với ông Tiên.
Bài làm tham khảo
Trong truyện cổ tích dân gian Việt Nam thường hay có sự xuất hiện của những nhân vật được gọi là ông Tiên (Phật, Bụt). Đó là những nhân vật đại diện cho công bằng trong xã hội. Ông Tiên thường là những vị thần đem lại hạnh phúc cho người nghèo khó, tốt bụng và trừng phạt những kẻ độc ác, xấu xa.
Theo trí tưởng tượng của em, Tiên ông là một ông lão quắc thước, râu tóc bạc phơ, trán cao, da dẻ hồng hào, mắt sáng, miệng tươi, dáng điệu khoan thai. Trang phục ông mặc thường mang màu trắng. Chiếc áo tay dài, đôi hài,… tất cả đều trắng tinh một màu. ông thường cầm trên tay một chiếc gậy đầu rồng hoặc đơn giản chỉ là thanh trúc vàng óng ả. Bao quanh người ông là một làn khói mỏng mờ ảo và những làn ánh sáng lấp lánh. Ông còn sở hữu một giọng nói trầm ấm khác thường, giọng nói đó đã an ủi biết bao con người khôn khổ trong bước đường cùng.
Mỗi khi ông Tiên hiện ra là một người tốt được giúp đỡ. Khi thì ông giúp cô Tấm có được quần áo đẹp để đi dự dạ hội, khi lại giúp anh Khoai kiếm được cây tre trăm đốt theo lời phú ông. Tiên ông chính là nơi bám víu cuối cùng của những con người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ. Đau đớn trước số phận của mình, họ thường viện vào thần tiên để thể hiện ước mơ và khát khao hạnh phúc.
Tiên ông không chỉ là nhân vật cứa giúp người nghèo mà còn là nhân vật đại diện cho lẽ công bằng, cho quan niệm: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” của nhân dân ta. Trước những kẻ xấu xa, mưu mô và thủ đoạn ông thường thẳng tay trừng trị:
“ Tưởng rằng hóa đẹp như tiên
Ngờ đâu bỗng nổi ngứa điên, gãi hoài.
Khắp mình lủng lá mọc dùi,
Thành tiên chẳng thấy, hoá loài đông sơn
Còn đối với những người hiên lành, tốt bụng thì lại được đền đáp xứng đáng. Có thể là trở nên xinh đẹp, giàu có hay đạt được những ước muốn của mình.
” Ta là Phật Tổ Như Lai,
Trời sai xuống thử lòng người trần gian,
Ai hiền la sẽ ban ơn
Cho người tích đức tu nhân nức lòng”
Để thử lòng người trần gian, ông Tiên thường biến thành những hình dáng khác nhau. Có khi là trong hình dáng một ông lão ăn mày rách rưới, xác xơ; người cùng đường lỡ bước hay nguời mẹ bồng con đang trong cơn hoạn nạn bơ vơ xin nương nhờ.
“Một ông cụ già nua tuổi tác,
Râu rườm rà, tóc bạc phất phơ
Nói rằng: nhỡ bước sa cơ,
Xin ăn một bữa, ngủ nhờ một đêm… ”
Hay
“Hoá ra người mẹ tay bồng con thơ.
Gặp cơn hoạn nạn bơ vơ,
Đến xin làm giúp ăn nhờ nương thân ”
(Người hoá khi)
Ông Tiên trong truyện cổ tích Việt Nam luôn luôn đại diện cho lẽ phải, cho những con người yếu đuối trong xã hội. Chính bởi vậy mà hàng ngàn năm nay trẻ em vẫn mong ước một lần được gặp ông Tiên, được ông Tiên ban cho phép màu. Và em cũng rất mong như thế.
Đề 4: Tả một nhân vật có hành động và ngoại hình khác thường:
* Mở bài: Giới thiệu về người em định tả (gặp ở đâu? Lúc nào?): Chủ nhật, bố mẹ cho em đi xem một chương trình quyên góp cho trẻ em khuyết tật. Em nhìn thấy bạn A (con trai).
* Thân bài:
– Ngoại hình
+, Bạn ý bằng tuổi em nhưng chỉ bé như học sinh lớp 1.
+, Đôi tay bạn không được lành lặn và đôi chân của bạn cũng vậy.
+, Gương mặt bạn toát lên vẻ trong sáng và hồn nhiên.
+, Bạn luôn nở một nụ cười tươi rói.
– Tính cách:
+, Bạn hòa đồng, dễ gần
+, Rất sôi nổi.
– Hoạt động: Bạn là ca sĩ hát chính cho đêm từ thiện đó. Bạn hát rất hay, từng câu chữ đều mang đến cho người nghe sự ấm nóng, tình thương.
* Kết bài: Cảm xúc của em với cậu bạn đó.
Bài làm tham khảo
Mỗi lần theo mẹ ra chợ mua hàng, là em lại có dịp quan sát một cậu bé có hình dạng và hoạt động rất kì lạ. Khiến cho em có một ấn tượng rất sâu sắc. Chắc các bạn và các thầy cô cũng thắc mắc, người bạn nhỏ ấy có đặc điểm gì khiền em phải chú ý như vậy. Sau đây, em xin tả lại cho cô và các bạn cùng nghe.
Cậu bé tên là Minh, nhà Minh nghèo lắm. Có lần em nghe các bác trong chợ kể rằng ba má cậu mất sớm, để lại hai chị em Minh non nớt đương đầu với sóng gió của cuộc đời. Do nhà nghèo, nên chị Minh phải đi làm thuê làm mướn suốt ngày, còn Minh thì phải đi bán rong trong chợ các đồ linh tinh như bàn chải, lược, đồ móc chìa khoá để nuôi sống bản thân. Tóc cậu rậm rạp, có lẽ vì nhà nghèo nên cậu không thể đi cắt tóc được. Cậu có khuôn mặt hình chữ điền dính đầy bụi bẩn vì cậu phải lăn lộn khắp nơi để kiếm ăn nhưng ẩn sau lớp bụi bẩn đấy, em tin chắc là một tấm lòng nhân hậu. Cậu có chiếc mũi dọc dừa trông chẳng hợp với khuôn mặt của mình tí nào. Ẩn sau đôi môi tái nhợt vì bệnh tật là hàm răng khểnh và trắng ngà. Đã vậy, ông trời còn nỡ để Minh mang một dị tật khủng khiếp. Hai tay cậu bị bại liệt không giống như người bình thường khiến cậu cầm nắm rất khó khăn. Vì vậy mà chị Minh phải quàng sẵn đồ đạc lên người Minh để cậu có thể bán. Cũng chính vì điểm này mà tất cả lũ nhóc trong chợ đều gọi Minh với một cái tên trêu chọc là Minh cùi. Mỗi lần như vậy, Minh vừa khóc vừa giận dữ xua các bạn kia ra, nhưng vì bị tật nên chẳng những không xua được mà còn bị té lên té xuống khiến đám nhóc vô luơng tâm kia cười vỡ cả bụng. Em vội vã chạy đến đỡ Minh dậy. Thế là Minh kết thân với em vì em là người bạn duy nhất không trêu chọc Minh. Trong chỉ vài phút tiếp cận. Em đã phát hiện ra rằng: Tuy xấu xí, nhưng cậu vẫn mang trong mình cái hồn nhiên, trong sáng của tuổi thơ. Thỉnh thoảng, cậu chạy theo một chú bướm vàng với một bộ dạng rất vui vẻ, yêu đời. Cậu chăm chỉ thật. Từ khi chợ họp đến giờ, cậu vẫn cứ đứng ở trước cửa mời gọi mọi người mua hàng. Cậu tuy nghèo nhưng cũng có lòng tự trọng rất cao.
Có lần, một bác đi mua rau ngang qua, thấy cậu bé tội nghiệp, bác cho cậu năm nghìn và nói: “Ta tặng cho cháu đấy, ta không lấy hàng gì đâu” Thế mà Minh không nhận, nằng nặc xin bác phải mua một món gì đó mới thôi. Minh nói với Bác nọ: “Đói cho sạch, rách cho thơm bác ạ. Cháu không phải ăn mày. Cháu muốn sống bằng sức lao động của mình”. Minh tuy nghèo nhưng rất ham học dù điều kiện gia đình không cho phép. Trong lúc đi bán, lâu lâu, Minh lại lấy cuốn sách của chị cậu cho ra đọc. Hỏi thăm mới được biết là tối nào, chị Minh cũng dạy Minh học chữ. Vì bị bại liệt hai tay nên cậu phải dùng hai ngón chân để cầm bút. Tuy vậy chữ cậu lại rất đẹp. Thật là tài tình phải không các bạn. Minh còn có biệt tài vẽ chân dung bằng chân rất điêu luyện. Những người khách qua đường thỉnh thoảng lại tò mò muốn xem Minh vẽ, thế là cậu dùng hai ngòn chân nhỏ bé của mình kẹp lấy bút rồi ngả người ra sau chuẩn bị tư thế. Như một phép thuật kì diệu, những đường nét nghệ thuật bắt đầu hiện ra. Khi bức tranh đã hoàn thành ai cũng tấm tắc khen đẹp. Nét đẹp ấy không những từ bức chân dung Minh vẽ mà còn là từ lòng quyết tâm, ý chí phấn đấu đi lên của Minh đấy. Tuy khó khăn, nhưng Minh không hề nản chí làm em rất nể phục. Cậu làm em nhớ đến hình ảnh thầy Nguyễn Ngọc Kí người đã dùng hai ngón chân tập viết, đã nổi tiếng trong cả nước. Trời đã gần trưa, mẹ đã mua hàng xong và ra đón em. Vừa lúc ấy, chị của Minh tất tả chạy bộ đến mang cơm cho Minh. Trông thấy em đang nói chuyện với Minh, chị nói: “Chào em, em là bạn của Minh à”. Em tươi cười gật đầu. Chị quay sang đút cơm cho Minh ăn, thấy Minh phải cố gắng lắm mới ăn đươc từng muổng cơm và người chị thương em chốc chốc lại chảy nước mắt làm em rất cảm động. Nghe em kể về Minh, mẹ em sực nhớ về Bác Tư người làm trong một ngôi nhà tình thương của một tổ chức nhân đạo. Mẹ em chạy đến nói với chị của Minh. Hai chị em mừng đến phát khóc. Cuối cùng chị em Minh đã được đón về một mái ấm tình thương để được che chở, đùm bọc và dạy dỗ nên người
Nhìn hoàn cảnh của Minh, một cậu bé mồ côi, tật nguyền. Em cảm thấy mình rất may mắn được sống đầy đủ và êm ấm trong vòng tay thương yêu của cha mẹ và ông bà. Em quyết tâm học thật giỏi để sau này lớn lên trở thành người tài, làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Em sẽ thành lập nhiều tổ chức từ thiện để góp phần xoa dịu các nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh như chị em Minh.
Soạn văn: Viết bài làm văn số 7 (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
Đề 1: Em hãy tả lại quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em.
Dàn ý
A. Mở bài
– Em định tả một phiên chợ ở đô thị, ở đồng bằng, vùng núi hay vùng biển?
– Chợ quê em có đặc điểm gì nổi bật nhất?
B. Thân bài
– Tả lần lượt theo trình tự thời gian.
+ Lúc chợ chưa họp: quang cảnh như thế nào? Các lều chợ ra sao? Dấu hiệu còn lại của buổi chợ hôm trước?
+ Chợ bắt đầu họp: Mọi người đổ về chợ đông như thế nào? Các hàng quán bắt đầu bày bán ra sao? Không khí lúc này thay đổi thế nào?
+ Lúc tan chợ: không khí, sự bừa bộn, …
– Đặc điểm riêng (nếu có) ở khu chợ quê em?
C. Kết bài
– Kỉ niệm đẹp nhất của em với ngôi chợ ấy là gì? (là những lần đi chợ tết, hay là những lần theo mẹ đi mua sắm,…).
Đề 2: Từ bài văn Lao xao của Duy Khán, em hãy tả lại khu vườn trong một buổi sáng đẹp trời.
Dàn ý
A. Mở bài
– Khu vườn mà em định tả là của ai?
– Nó có điểm gì đặc biệt?
– Nó gắn bó với em thế nào?
B. Thân bài
– Quang cảnh khu vườn khi trời sáng:
+ Mặt trời mọc …
+ Những giọt sương đêm trên lá …
– Khu vườn bắt đầu nhộn nhịp bởi tiếng chim (xen miêu tả một số loài chim trong bài văn Lao xao).
– Miêu tả một số loài cây có trong vườn mà em thích.
– Khu vườn gắn bó với tuổi thơ của em ra sao? (có thể kể một kỉ niệm sâu sắc nào đó, với ông nội chẳng hạn).
C. Kết bài
– Em ấn tượng nhất với khu vườn là ở điểm gì?
Đề 3: Em đã từng gặp ông Tiên trong những truyện cổ dân gian, hãy miêu tả lại hình ảnh ông Tiên theo trí tưởng tượng của mình.
Dàn ý
A. Mở bài
– Trong các truyện cổ tích, nhân vật ông Tiên nào để lại cho em ấn tượng sâu đậm nhất. Tại sao?
– Dẫn dắt người đọc và tình huống em gặp ông Tiên (tưởng tượng: đang ngủ thì mơ hoặc khi gặp khó khăn gì …).
B. Thân bài
– Miêu tả chân dung nhân vật ông Tiên.
+ Hình dáng
+ Khuôn mặt
+ Chòm râu, mái tóc
+ Cây gậy …
– Những lời đối thoại của em với ông Tiên.
– Miêu tả hành động của ông Tiên (tưởng tượng, ví dụ: em bị lạc đường, ông Tiên đã cho em một chiếc xe ngựa thông minh và thế là em được về nhà,…).
C. Kết bài
– Ý nghĩa của nhân vật ông Tiên trong truyện và trong suy nghĩ của em.
Đề 4: Hãy tả một nhân vật có hành động và ngoại hình khác thường mà em đã có dịp quan sát, đã đọc trong sách hoặc nghe kể lại.
Dàn ý
Có thể chọn ngay các nhân vật đã học như: Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Sọ Dừa,… hoặc chọn một nhân vật mà em biết qua các phương tiện thông tin khác. Dưới đây là một dàn ý khái quát chung:
A. Mở bài
– Giới thiệu về nhân vật mà em sẽ tả (tên nhân vật, nhân vật xuất hiện trong tác phẩm nào? Nhân vật có đặc điểm gì gây ấn tượng?…).
B. Thân bài
– Miêu tả những nét khác thường về chân dung của nhân vật đó? (lúc sinh ra, vóc dáng, sức mạnh,…).
– Miêu tả những hành động khác thường của nhân vật (diệt giặc, diệt yêu tinh, các hành động vướt quá sức của người thường,…).
– Nhận xét về nhân vật (đó là một người tốt hay xấu, nhân vật biểu tượng cho ước mơ gì hay cho điều gì mà con người mong muốn?).
C. Kết bài
– Nhân vật mà em vừa miêu tả để lại trong em cảm xúc và ấn tượng gì?
– Từ nhân vật ấy, em mong ước điều gì hay rút ra được bài học gì cho bản thân.