Soạn văn: Hịch tướng sĩ
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 8, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Hịch tướng sĩ”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN HỊCH TƯỚNG SĨ SIÊU NGẮN
Tóm tắt: Hịch tướng sĩ
Trước tình hình địch mạnh, ta yếu, Trần Quốc Tuấn đã có bài hịch động viên tướng sĩ. Ông đưa ra những tấm gương lịch sử về lòng yêu nước, trung nghĩa từ xa xưa, hay đời Tống Nguyên mới đây. Vị chủ soái vạch rõ tội ác của giặc và bày tỏ nỗi căm phẫn khi chưa tiêu diệt được kẻ thù. Ngài còn nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, đồng thời phê phán những hành động sai của tướng sĩ, khẳng định những hành động đúng nên làm.
Bố cục
– Phần 1 ( từ đầu … lưu tiếng tốt): Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ, tạo động lực cho toàn quân.
– Phần 2 ( tiếp…ta cũng vui lòng): Tố cáo tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
– Phần 3 (Các người ở cùng ta…có được không?): Phân tích phải trái trong tình hình hiện tại của quân sĩ .
– Phần 4 (còn lại): Nhiệm vụ, lời kêu gọi, khích lệ tinh thần tướng sĩ.
Giá trị nội dung
Bài Hịch tướng sĩ của Trấn Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đây là một áng văn chính luận xuất sắc, có sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn thống thiết, có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
Đọc – hiểu văn bản
Câu 1: Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn ? Nêu ý chính của từng đoạn.
Trả lời:
– Phần 1 ( từ đầu … lưu tiếng tốt): Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ, tạo động lực cho toàn quân.
– Phần 2 ( tiếp…ta cũng vui lòng): Tố cáo tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
– Phần 3 (Các người ở cùng ta…có được không?): Phân tích phải trái trong tình hình hiện tại của quân sĩ .
– Phần 4 (còn lại): Nhiệm vụ, lời kêu gọi, khích lệ tinh thần tướng sĩ.
Câu 2: Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào ? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ ?
Trả lời:
– Sự ngang ngược và tội ác của giặc:
+ Đi lại nghênh ngang ngoài đường
+ Sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ
+ Đòi ngọc lụa, thu bạc vàng
⇒ Chúng chà đạp lên lòng tự tôn dân tộc, tham lam, hống hách.
– Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ, so sánh để lột tả bộ mặt của chúng:
+ Hình ảnh ẩn dụ chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,…
+ Hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ sự căm thù, khinh bỉ cực độ: uốn lưỡi cũ diều- sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó- bắt nạt tể phụ.
– Đoạn văn tố cáo tội ác của giặc đã khơi gợi lòng tự tôn dân tộc, lòng căm hận kẻ thù và ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước.
Câu 3: Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình ?
Trả lời:
Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình:
– Nỗi đau thống thiết khi chứng kiến cảnh đất nước bị giặc giày xéo: “tới bữa quên ăn”, “nửa đêm vỗ gối”, “ruột đau như cắt”, “nước mắt đầm đìa”.
– Lòng căm thù giặc tột độ, quyết tâm đánh bại kẻ thù: xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.
– Sẵn sàng hi sinh nơi chiến trường để giữ yên bờ cõi: Dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
⇒Tác giả sử dụng biệp pháp nói quá, so sánh để thể hiện một cách sâu sắc lòng yêu nước và căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn.
Câu 4: sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì ? Khi phê phán hay khẳn định, tác giả tập trung vào vấn đề gì ? Tại sao phải như vậy ?
Trả lời:
– Trần Quốc Tuấn phê phán hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý:
+ Thức tỉnh quân sĩ trước tình hình ba quân có thái độ thờ ơ, chìm đắm trong những thú vui tầm thường mà không lo nghĩ việc nước.
+ Xốc lại tinh thần cho tướng sĩ, chấn chỉnh tác phong, suy nghĩ để chuẩn bị tốt nhất cho cuộc chiến.
+ Khẳng định những hành động đúng, vạch ra đường hướng để quân sĩ có động lực, mục đích phấn đấu.
– ¬Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Vì: Tình hình đất nước đang nguy nan, mục đích cao nhất bây giờ là đồng lòng giết giặc, cứu nước.
Câu 5: Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng cảnh ngộ ? Là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo ? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào ?
Trả lời:
– Giọng văn linh hoạt:
+ Lúc của chủ tướng nói với tướng sĩ, binh lính.
+ Lúc là người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng khi nước bị giặc xâm lược.
– Bài hịch vừa là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn vừa là lời nghiêm khắc cảnh cáo. Khi khuyên răn, dùng lời lẽ chân tình, thiết tha. Khi nghiêm khắc, không ngại đưa ra những lời lẽ gay gắt.
– Cách viết của tác giả tác động tới tướng sĩ: Thức tỉnh sai lầm của tướng sĩ, khơi dậy lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm đồng lòng giết giặc cứu nước.
Câu 6: Hãy nêu một số đặc điểm đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.
Trả lời:
– Một số đặc sắc nghệ thuật thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm:
+ Thủ pháp so sánh tương phản.
+ Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến.
+ Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn đanh thép.
+ Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý…
+ Giọng điệu đa dạng, có sức thuyết phục cao.
Câu 7*: Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một lược đồ và kết cấu của bài hịch.
Trả lời:
Lược đồ thể hiện cách triển khai lập luận: khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng
Luyện tập
Câu 1: Phát biểu cảm nhận về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn được thể hiện qua bài hịch.
Trả lời:
Trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tác giả đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của mình. Một vị chủ soái đã “ruột đau như cắt”, “nước mắt đầm đìa” trước cảnh đất nước bị giày xéo. Ngài sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đất nước dẫu cho thân phơi nội cỏ, xác gói da ngựa cũng cam lòng. Trần Quốc Tuấn còn gánh trên mình trách nhiệm chỉ huy quân sĩ. Ông chỉ ra đúng sai, chỉ ra con đường cần đi cho quân sĩ, khơi dậy lòng quyết tâm đánh giặc cứu nước của họ. Ngài không chỉ có tấm lòng yêu nước sâu sắc sắc mà còn là vị chủ tướng có trách nhiệm, nghĩa tình.
Câu 2: Chứng minh bài Hịch tướng sĩ vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giầu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.
Trả lời:
“Hịch tướng sĩ” vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc:
– Lập luận chặt chẽ sắc bén
+ Khích lệ lòng căm thù ngoại xâm, nỗi nhục của kẻ mất nước.
+ Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc, ý thức ân nghĩa thủy chung.
+Khích lệ ý chí lập công danh, vì đất nước cũng là vì chính mình.
+ Khích lệ ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng trước điều hơn lẽ thiệt.
– Dẫn chứng giàu sức thuyết phục: Viện dẫn sử sách Trung Hoa từ xa xưa, đời Tống- Nguyên
– Giọng điệu khi thống thiết, khi sục sôi, khi nghiêm khắc, lúc lại ân tình …
2. SOẠN VĂN HỊCH TƯỚNG SĨ CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN HỊCH TƯỚNG SĨ HAY NHẤT
Soạn văn: Hịch tướng sĩ (chi tiết)
Đề bài học sinh xem bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Tóm tắt
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc nhằm kêu gọi, khích lệ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn, tự trọng và ý chí chống giặc ngoại xâm của các tướng sĩ. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách. Tiếp theo Ngài tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù để khơi dậy lòng căm thù giặc của tướng sĩ. Ngài còn nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ đồng thời Ngài phân tích phải trái, đúng sai, định hướng hàng ngũ quân sĩ và khẳng định những hành động nên làm.
Câu 1 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Bài hịch bố cục thành 4 đoạn:
– Đoạn 1 (từ đầu đến “đến nay còn lưu tiếng tốt.”): tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.
– Đoạn 2 (từ “Huống chi ta” đến “ta cũng vui lòng.”): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.
– Đoạn 3 (từ “Các ngươi ở cùng ta” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?“): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ (từ “Các ngươi” đến “muốn vui vẻ phỏng có được không ?“) và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai (từ “Nay ta bảo thật” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không ?“).
– Đoạn 4 (từ “Nay ta chọn binh pháp” đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.
Câu 2 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Tác giả lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc:
“Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”
– Bộ mặt của quân giặc được phơi bày bằng những sự việc trong thực tế : đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu vàng bạc, vét của kho có hạn…
– Để lột tả sự ngang ngược và tội ác tham tàn của giặc, đồng thời bày tỏ thái độ căm thù, khinh bỉ cực độ, tác giả đã dùng lối nói hình ảnh so sánh, ẩn dụ:
+ Hình ảnh chỉ quân giặc: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,…
+ Các hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ thái độ căm thù, khinh bỉ: uốn lưỡi cú diều – sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó – bắt nạt tể phụ.
– Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự trọng dân tộc, khắc sâu lòng căm thù ngoại xâm ở tướng sĩ.
Câu 3 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình, có thể xem đây là đoạn văn hay nhất của bài hịch: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
– Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
– Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
– Qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì đất nước được khắc hoạ rõ nét. Những lời tâm huyết, gan ruột của vị tướng có sức lay động mạnh mẽ, truyền cho tướng sĩ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi và một thái độ xả thân, chấp nhận hi sinh vì non sông xã tắc.
Câu 4 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
– Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận lại mình để điều chỉnh suy nghĩ cũng như hành động của tướng sĩ.
– Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung vào vấn đề đề cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bởi vì, bài hịch này dù trực tiếp là nhằm khích lệ tiến sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn biên soạn, nhưng mục đích cao nhất chính là kêu gọi tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng với ngoại xâm.
Câu 5 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Trong bài hịch, giọng văn lúc thì là của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền lúc lại là của người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng, chủ soái hay tướng sĩ khi đất nước lâm nguy thì đều cùng một cảnh ngộ):
– Khi muốn bày tỏ ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi, chân tình của người cùng chung cảnh ngộ để nói: “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, (…) lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” , “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…”
– Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh đất nước, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng: “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết tức”, “không biết căm”… Thực ra, gia thần của ông như Dã Tượng, Yết Kiêu, các môn khách như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực… đều là những người trung nghĩa. Trung nghĩa là nét nổi bật của tinh thần Đông A (tức nhà Trần). Cho nên, số người cầu an, hưởng lạc tuy vẫn có, nhưng có phần chắc là Trần Quốc Tuấn dùng phép khích tướng, kích họ bằng sỉ nhục, đẩy họ vào thế phải chứng tỏ tấm lòng biết lo, biết thẹn, biết tức, biết căm mà đồng lòng hiệp sức cùng chủ tướng đánh dẹp quân thù.“(Trần Đình Sử)
– Dù là khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo thì cũng đều nhằm khơi dậy ý thức về trách nhiệm, bổn phận của tướng sĩ đối với giang sơn xã tắc, đều hướng tới cái đích kêu gọi đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân xâm lược, đối phó với kẻ thù.
Câu 6 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục cho bài hịch tướng sĩ.
– Thủ pháp so sánh – tương phản: đoạn 2,3
– Thủ pháp trùng điệp – tăng tiến; được sử dụng kết hợp với thủ pháp so sánh – tương phản, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc (đoạn 3).
Câu 7* (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đặc sắc, với phong cách văn biền ngẫu có sức lay động lòng người.
Với kết cấu chặt chẽ, bài hịch cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ với tình cảm, giữa lập luận với hình ảnh, dẫn chứng giàu sức thuyết phục.
Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua lược đồ kết cấu sau:
Soạn văn: Hịch tướng sĩ (hay nhất)
Đề bài học sinh xem bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Tóm tắt
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc nhằm kêu gọi, khích lệ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn, tự trọng và ý chí chống giặc ngoại xâm của các tướng sĩ. Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách. Tiếp theo Ngài tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù để khơi dậy lòng căm thù giặc của tướng sĩ. Ngài còn nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ đồng thời Ngài phân tích phải trái, đúng sai, định hướng hàng ngũ quân sĩ và khẳng định những hành động nên làm.
Bố cục
Chia làm 4 phần:
– Phần 1 ( từ đầu … còn lưu tiếng tốt): Nguyên lý đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng.
– Phần 2 ( tiếp…ta cũng vui lòng): Nêu thực trạng đất nước đang bị giặc ngoại xâm.
– Phần 3 (Các người ở cùng ta…không muốn vui vẻ phỏng có được không?): Nêu giải pháp .
– Phần 4 (còn lại) Lời hiệu dụ, kêu gọi tướng sĩ.
Câu 1 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Chia làm 4 phần:
– Phần 1 ( từ đầu … còn lưu tiếng tốt): Nguyên lý đạo đức hay chính trị làm cơ sở tư tưởng.
– Phần 2 ( tiếp…ta cũng vui lòng): Nêu thực trạng đất nước đang bị giặc ngoại xâm.
– Phần 3 (Các người ở cùng ta…không muốn vui vẻ phỏng có được không?): Nêu giải pháp .
– Phần 4 (còn lại) Lời hiệu dụ, kêu gọi tướng sĩ.
Câu 2 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Tác giả vạch ra tội ác và sự hống hách, ngang ngược của giặc:
– Bộ mặt của giặc được phơi bày bằng những việc trong thực tế:
+ Đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình.
+ Bắt nạt tể phụ, đòi lụa ngọc, thu vàng bạc, vét của kho.
→ Lột tả bộ mặt ngang ngược, thói tham lam, sự độc ác của những quân giặc, đồng thời bày tỏ sự căm phẫn, thái độ khinh bỉ cực độ của tác giả.
– Sử dụng lối nói so sánh, ẩn dụ:
+ So sánh quân giặc với thân dê chó, lưỡi cú diều.
+ Hình ảnh được đặt trong thế đối sánh để tỏ rõ sự căm thù, khinh bỉ cực độ: uốn lưỡi cũ diều- sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó- bắt nạt tể phụ.
→ Tố cáo tội ác của giặc, tác giả đã khơi gợi lòng tự tôn, tự trọng dân tộc, khơi gợi lòng tướng sĩ thái độ căm phẫn trước kẻ thù và trách nhiệm với đất nước.
Câu 3 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Sau khi tố cáo tội ác của giặc, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bày tỏ lòng yêu nước, căm thù giặc của mình.
– Nỗi đau nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết:
+ Quên ăn, mất ngủ, lòng đau như dao cắt, nước mắt đầm đìa.
– Uất hận lên tới đỉnh điểm khi tác giả bộc lộ thái độ căm phẫn, muốn tiêu diệt kẻ thù:
+ Căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
– Vị tướng nguyện một lòng xả thân vì sự nghiệp bảo vệ đất nước:
+ Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, … ta cũng vui lòng.
→ Nổi bật hình tượng người anh hùng yêu nước, khảng khái, sẵn sàng xả thân vì nước. Dốc hết những lời gan ruột để lay động quân sĩ tình yêu nước, thái độ căm thù giặc.
Câu 4 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Trần Quốc Tuấn phê phán hành động sai trái của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý:
+ Trần Quốc Tuấn nghiêm khắc phê phán thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ khi đất nước bị làm nhục.
+ Tập trung phê phán những thú vui tầm thường, hành động sai trái: thích rượu ngon, mê gái đẹp, ưa săn bắn.
+ Thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm, tự nhìn nhận
+ Chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của tướng sĩ cho đúng đắn:
– Khi phê phán hoặc khẳng định tác giả đều tập trung vào vấn đề nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo rèn luyện để chiến thắng kẻ thù xâm lược.
– Lời nói đanh thép như trách mắng tướng sĩ “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết căm tức”.
→ Khi chỉ ra những điều sai trái nghĩa quân, tướng sĩ phạm để thức tỉnh ý thức tự tôn dân tộc, qua đó vạch ra hướng đi đúng đắn, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù là mục đích cốt yếu.
Câu 5 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
– Giọng văn linh hoạt:
+ Lúc của chủ tướng nói với tướng sĩ, binh lính.
+ Lúc là người cùng cảnh ngộ (suy cho cùng khi nước bị giặc xâm lược.
– Dùng giọng ân tình, gần gũi để khuyên răn thiệt hơn: “các ngươi ở cùng ta… lúc vui cười”.
– Giọng nghiêm khắc trách cứ, cảnh cáo những hành động sai lầm, thái độ thờ ơ, tác trách của quân sĩ khi đất nước lâm nguy.
– Thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt để khích tướng, thức tỉnh quân sĩ: ” không biết lo”, ” không biết thẹn”.
→ Dù Trần Quốc Tuấn có sử dụng giọng ân cần khuyên răn hay giọng nghiêm nghị trách giận thì tất cả đều nhằm gợi lên ý thức, trách nhiệm của tướng sĩ với non sông, xã tắc., kêu gọi sự đồng tâm hiệp lực.
Câu 6 (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Đặc sắc nghệ thuật góp phần tạo nên sức thuyết phục cho văn bản:
– Thủ pháp so sánh tương phản : Làm nổi bật hình ảnh đau thương người dân mất nước >< hình ảnh ngang ngược, tàn bạo của giặc Nguyên- Mông.
– Thủ pháp trùng điệp- tăng tiến được kết hợp với thủ pháp so sánh- tương phản nhằm tạo giọng điệu hùng hồn, trùng điệp, khắc vào tâm trí người đọc.
– Lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn đanh thép.
– Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp ý…
– Linh hoạt trong cách sử dụng giọng điệu trong văn bản.
→ Nghệ thuật lập luận sắc bén, linh hoạt kết hợp với các thủ pháp tiêu biểu, lời lẽ khi tha thiết, khi nghiêm nghị nhằm tạo ra áng văn chính luận đanh thép, có sức thuyết phục cao.
Câu 7* (trang 61, Ngữ văn 8, tập 2).
Lược đồ thể hiện cách triển khai lập luận: khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng