Soạn văn: Ngắm trăng (Vọng nguyệt)
Để giúp các em học sinh học tốt môn Ngữ Văn lớp 8, hocthattot.vn đã sưu tầm, biên soạn các bài soạn văn phong phú từ ngắn gọn, đầy đủ đến chi tiết.
Trong bài học này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài học về “Ngắm trăng (Vọng nguyệt)”.
Nội dung chính
1. SOẠN VĂN NGẮM TRĂNG (VỌNG NGUYỆT) SIÊU NGẮN
Bố cục
– Phần 1: 2 câu đầu, hoàn cảnh ngắm trăng.
– Phần 2: 2 câu cuối, sự giao hòa của con người với thiên nhiên.
Giá trị nội dung
Ngắm trăng là bài thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, cho thấy tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ tối tăm.
Đọc hiểu văn bản
Câu 1: Đọc kĩ phần phiên âm, phần dịch nghĩa và phần giải nghĩa chữ Hán để hiểu chính xác từng câu trong bài thơ. Học thuộc bản dịch thơ và nhận xét về các câu thơ dịch.
Trả lời:
Nhận xét các câu thơ dịch: Các câu thơ dịch và phiên âm có sự khác nhau
– Câu thơ thứ 2: “nại nhược hà?/khó hững hờ
+ “Nại nhược hà?”nghĩa là Biết làm thế nào?: Diễn tả sự bối rối, xốn xang.
+ “khó hững hờ”: thể hiện sự bình thản của chủ thể.
– Hai câu thơ cuối cũng chưa sát với phiên âm.
+ “nhòm” và “ngắm”: hai từ đồng nghĩa, khiến cho lời dịch không bảo đảm được sự cô đúc của ý tứ và thể thơ.
+ “nhòm” trong phiên âm là “khán”: bản dịch làm mất đi sự nhã nhặn, ý tứ cô đúc của bản nguyên tác.
Câu 2: Ở bài thơ này, Bác Hồ ngắm trăng trong hoàn cảnh như thế nào ? Vì sao Bác lại nói đến cảnh “Trong tù không rượu cũng không hoa” ? Qua hai câu đầu, em thấy Bác có tâm trạng ra sao trước cảnh trăng đẹp ngoài trời ?
Trả lời:
– Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác: Bị giam giữ trong tù.
– Bác nói “trong tù không rượu cũng không hoa” vì: Ngắm trăng là thú vui tao nhã. Ngắm trăng thường đi đôi với uống rượu, làm thơ. Nhưng ở hoàn cảnh của Bác thì điều đó là không thể.
– Tâm trạng của Bác trước cảnh trăng đẹp:
+ Hoàn cảnh: ngục tù
Tâm thế: Ngắm trăng và thốt lên “nại nhược hà”?
⇒ Tâm trạng xốn xang, rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Tâm hồn người tù không bị vướng bận bởi những những thiếu thốn, khó khăn mà hòa hợp với thiên nhiên.
Câu 3: Trong hai câu thơ cuối của bài thơ chữ hán, sự sắp xếp vị trí các từ nhân (và thi gia), song nguyệt (và minh nguyệt) có gì đáng chú ý ? Sự sắp xếp như vậy và việc đặt hai câu dưới dạng đối nhau có hiệu quả nghệ thuật như thế nào ?
Trả lời:
– Trong hai câu thơ cuối của bài thơ chữ Hán, sự sắp xếp các từ nhân (và thi gia), song, nguyệt (và minh nguyệt) có sự đăng đối:
+ Đối ý: Giữa người và trăng có sự tương giao, hòa hợp
+ Chữ “song” ở giữa cặp từ ”nhân”/ “minh nguyệt”- “nguyệt”/ “thi gia”: Song sắt giam nổi tâm hồn yêu cái đẹp của người tù có tâm hồn thi sĩ, cũng không thể ngăn cái đẹp đến với thi nhân ấy.
– Sự sắp xếp như vậy và việc đặt hai câu dưới dạng đối nhau có hiệu quả nghệ thuật:
+ Biện pháp nhân hóa: trăng trở thành người bạn tri âm tri kỷ của người tù.
Câu 4: Qua bài thơ, em thấy hình ảnh Bác Hồ hiện ra như thế nào ?
Trả lời:
– Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ:
+ Hình ảnh người tù có ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên, vần thơ thép thể hiện tinh thần cách mạng vượt lên mọi gông cùm, xiềng xích.
+ Tâm hồn thi sĩ dễ rung động trước cái đẹp.
⇒ Vần thơ thép khắc họa chân dung người chiến sĩ với tinh thần ung dung, tự tại không bị ngục tù làm nhụt chí, trái lại còn thăng hoa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên
Câu 5*: Nhà phê bình văn học Hoàn Thanh nhận xét: “Thơ Bác đầy trăng”. Hãy chép lại những bài thơ Bác Hồ viết về trăng mà em biết (chú ý ghi rõ thời điểm sáng tác mỗi bài). Cuộc “ngắm trăng” trong bài Vọng nguyệt và hình ảnh trăng được thể hiện trong các bài thơ khác của Bác có gì đáng chú ý ?
Trả lời:
Một số bài thơ viết về trăng của Bác: Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng – 1948), Báo tiệp (Tin thắng trận – 1948), Đối nguyệt (Đối trăng), Cảnh khuya (1947), Cảnh rừng Việt Bắc (1947)
– Trăng trong thơ của Bác có nhiều sắc vẻ, trạng thái khác nhau.
+ Hoàn cảnh ngắm trăng: ngục tù, hay giữa trời nước bao la, lúc bận việc quân, lúc thư nhàn…
Dù hoàn cảnh trớ trêu, khi bận việc nước hay lúc thư nhàn Bác ngắm trăng mà lòng vẫn luôn canh cánh việc nước.
+ Trăng hiện lên là vẻ đẹp thiên nhiên vĩnh cửu.
+ Trăng trở thành như tri âm, tri kỷ với Người
⇒ Trong khó khăn, trong gian khổ Người làm bạn với trăng, hướng tới ánh sáng, sự tự do để đạt tới sự tự tại trong tâm hồn cũng là sự thể hiện tinh thần cách mạng kiên cường, lạc quan về một tương lai tươi sáng của đất nước.
2. SOẠN VĂN NGẮM TRĂNG (VỌNG NGUYỆT) CHI TIẾT
3. SOẠN VĂN NGẮM TRĂNG (VỌNG NGUYỆT) HAY NHẤT
Soạn văn: Ngắm trăng (chi tiết)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Bố cục
– Phần 1: 2 câu đầu, hoàn cảnh ngắm trăng.
– Phần 2: 2 câu cuối, sự giao hòa của con người với thiên nhiên.
Câu 1 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Đối chiếu giữa các nguyên tác, bản dịch nghĩa, dịch thơ:
– Ở câu thơ thứ hai: cụm từ “nại nhược hà?” nghĩa là “biết làm thế nào?” diễn tả sự bối rối, xốn xang của nhân vật trữ tình.
+ Nếu dịch thơ cụm từ “nại nhược hà” thành “khó hững hờ” vô hình chung đã làm mất đi sự tinh tế trong cảm nhận.
⟶ Gây người đọc hiểu rằng nhân vật trữ tình quá “tỉnh táo”, thậm chí “hững hờ” trước cảnh đẹp tự nhiên.
– Ở hai câu thơ cuối, bản dịch thơ chưa thật đúng và sát với nguyên tác.
+ Hai câu cuối đăng đối trong từng câu, và giữa hai câu: chữ “song” mang lại giá trị cao. Chữ “nhân” đối với chữ “nguyệt” trong cùng một câu. Chữ “nguyệt” đối với “thi gia” ở cuối câu 4. Trong khi bản dịch thơ không đảm bảo được sự đăng đối này.
+ Trong nguyên tác, chữ “khán” nghĩa là ngắm, câu thơ thứ 2 dịch thành “nhòm” làm mất đi tính hàm súc, sự nhã nhặn của ý thơ.
Câu 2 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
– Vọng nguyệt (hay đối nguyệt, khản minh nguyệt) là một thi đề rất phổ biến trong thơ xưa. Thi nhân xưa, gặp cảnh trăng đẹp, thường đem rượu uống trước hoa để thưởng trăng: có rượu và hoa thì sự thưởng trăng mới thật mười phần thú vị, mĩ mãn. Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng khi thánh thơi, tàm hồn thư thái. Nhưng ở đây, Hồ Chí Minh đã ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt, trong ngục tù! Đang là một tù nhân bị đày đọa vô vàn cực khổ. Điều kiện sinh hoạt của cái nhà tù tàn bạo dã man mà tù nhân phải sống cuộc sống “khác loài người làm sao phù hợp với việc thưởng nguyệt! Làm sao có rượu và hoa đế thưởng trăng? Không thế cho rằng câu thơ này mang ý nghĩa phê phán (vì chắng có nhà tù nào là “nhân đạo” đến nỗi mỗi kỳ trăng sáng lại đem rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng!). Chi có thế hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp, Hồ Chí Minh bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc không cỏ rượu và bởi những gách nặng về vật chất, tâm hồn vẫn tự do, vẫn ung dung, vẫn thèm được tận hưởng cảnh trăng đẹp.
Câu thứ hai, có cái xốn xang, bối rối rất nghệ sĩ trước cảnh đêm trăng quá đẹp của Bác Hồ. Câu thơ cho thấy rõ tâm hồn nghệ sĩ đích thực của Người. Mà trong tù thì biết làm thế nào để có cuộc ngắm trăng thực sự, và vì vậy mà càng bứt rứt, bối rối. Người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, lão luyện ấy vẫn là một con người yêu thiên nhiên một cách say mê và hồn nhiên, đã rung động mãnh liệt trước cảnh trăng đẹp, dù đang là thân tù.
Câu 3 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Hai câu thơ cuối có sự đăng đối về mặt ý và hình thức:
+ Chữ “song” (cửa sổ) ở giữa cặp từ nhân/ nguyệt- minh nguyệt/ thi gia: người tù vượt qua song sắt, qua sự kìm kẹp để hướng ra ngoài ngắm trăng.
+ Trăng cũng nhòm qua khe cửa ngắm nhà thơ: sự giao hòa giữa trăng với người, người và trăng.
+ Biện pháp nhân hóa: trăng trở thành người bạn tri âm tri kỷ từ rất lâu của người tù.
⟶ Cả người và trăng đều chủ động gặp gỡ tự do, vượt qua những rào cản cửa sắt nhà tù. Cuộc ngắm trăng này trở nên thi vị khi hai tâm hồn tri kỉ tìm đến với nhau: người- trăng.
Câu 4 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Bài thơ vừa thể hiện tình cảm thiên nhiên đặc biệt sâu sắc, mạnh mẽ, một biếu hiện nổi bật của tâm hồn nghệ sĩ ở Bác Hồ, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ vĩ đại đó. Vì vậy có thế nói, đằng sau những câu thơ rất thơ đó lại là một tinh thần thép, mà biểu hiện ở đây là sự tự do nội tại, phong thái ung dung, vượt hắn lên sự đè nặng tàn bạo của tù ngục. Qua bài thơ, người đọc cảm thấy người tù cách mạng ấy dường như không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở… của chế độ nhà tù khủng khiếp, cũng bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù, đã để tâm hồn bay bống tìm đến “đối diện đàm tâm” với vầng trăng tri âm.
Bài thơ là một chứng minh sinh động cho hai câu thơ Hồ Chí Minh viết ngoài bìa tập Nhật kí trong tù: “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ngoài lao”.
Câu 5 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Một số bài thơ Bác viết về trăng:
– Bài “Trung thu”:
Gương trăng vành vạnh giữa mùa thu,
Sáng khắp nhân gian bạc một màu,
Sum họp nhà ai ăn Tết đó
Chẳng quên trong ngục kè ăn sầu
Trung thu ta cũng Tết trong tù,
Trăng gió đêm thu gợi vẻ sầu,
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt.
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
(được viết khi Bác bị bắt giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch)
– Bài “Cảnh khuya”
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cố thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ Người chưa ngủ:
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
– Bài “Rằm tháng giêng” (Nguyên tiêu)
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
(1948)
– Bài “Đối trăng–” (Đối nguyệt):
Ngoài song, trống rọi cây sân,
Anh trăng nhích bóng cây gần trước song.
Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bàn song trăng nhòm.
(được viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp)
Điều đáng lưu ý là thơ Bác dành một vị trí trang trọng cho trăng. Giữa trăng và thi nhân có một mối giao hòa đồng điệu như tri âm tri kỉ. Vì thế, viết về trăng, các bài thơ của Hồ Chí Minh bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, tinh tế trước cảnh sắc thiên nhiên. Bên cạnh phẩm chất nghệ sĩ ấy là cốt cách người chiến sĩ với phong thái ung dung, lạc quan, luôn hướng về ánh sáng. Mặt khác, các bài thơ viết về trăng cho thấy một phong cách đặc sắc trong thơ trữ tình của Người, đó là sự hòa quyện giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại.
Soạn văn: Ngắm trăng (hay nhất)
Học sinh xem câu hỏi bên trên.
Lời giải
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Bố cục
– Phần 1: 2 câu đầu, hoàn cảnh ngắm trăng.
– Phần 2: 2 câu cuối, sự giao hòa của con người với thiên nhiên.
Câu 1 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Đối chiếu giữa các nguyên tác, bản dịch nghĩa, dịch thơ:
– Ở câu thơ thứ hai: cụm từ “nại nhược hà?” nghĩa là “biết làm thế nào?” diễn tả sự bối rối, xốn xang của nhân vật trữ tình.
+ Nếu dịch thơ cụm từ “nại nhược hà” thành “khó hững hờ” vô hình chung đã làm mất đi sự tinh tế trong cảm nhận.
→ Gây người đọc hiểu rằng nhân vật trữ tình quá “tỉnh táo”, thậm chí “hững hờ” trước cảnh đẹp tự nhiên.
– Ở hai câu thơ cuối, bản dịch thơ chưa thật đúng và sát với nguyên tác.
+ Hai câu cuối đăng đối trong từng câu, và giữa hai câu: chữ “song” mang lại giá trị cao. Chữ “nhân” đối với chữ “nguyệt” trong cùng một câu. Chữ “nguyệt” đối với “thi gia” ở cuối câu 4. Trong khi bản dịch thơ không đảm bảo được sự đăng đối này.
+ Trong nguyên tác, chữ “khán” nghĩa là ngắm, câu thơ thứ 2 dịch thành “nhòm” làm mất đi tính hàm súc, sự nhã nhặn của ý thơ.
Câu 2 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Hoàn cảnh ngắm trăng thật đặc biệt của nhà thơ:
+ Không rượu, không hoa >< rượu và hoa là những thứ không thể thiếu trong thú vọng nguyệt của người xưa.
+ Diễn ra trong cảnh lao tù chật chội, tù túng >< thú vui tao nhã ngắm trăng của người xưa phải ở nơi khoáng đạt, tâm hồn thư thái, an nhàn, thanh tĩnh.
– Trong tù không rượu cũng không hoa nhằm nói lên cảm giác thiếu thốn hoa của người tù, nhớ tới rượu và hoa là muốn thưởng thức trọn vẹn cái đẹp.
→ Người ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt: chốn ngục tù thiếu thốn, tối tăm.
– Trước cảnh trăng đẹp Người bối rối, xốn xang “Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”
+ Người yêu thiên nhiên say mê, rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của tạo hóa.
→ Tâm hồn người tù không bị vướng bận bởi những ách vật chất nặng nề, tâm hồn vẫn tự do, ung dung thưởng trăng đẹp.
Không chỉ là nhà cách mạng, chiến sĩ yêu nước mà Người còn là nghệ sĩ đích thực với những rung động của tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của tự nhiên.
Câu 3 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Hai câu thơ cuối có sự đăng đối về mặt ý và hình thức:
+ Chữ “song” (cửa sổ) ở giữa cặp từ nhân/ nguyệt- minh nguyệt/ thi gia: người tù vượt qua song sắt, qua sự kìm kẹp để hướng ra ngoài ngắm trăng.
+ Trăng cũng nhòm qua khe cửa ngắm nhà thơ: sự giao hòa giữa trăng với người, người và trăng.
+ Biện pháp nhân hóa: trăng trở thành người bạn tri âm tri kỷ từ rất lâu của người tù.
→ Cả người và trăng đều chủ động gặp gỡ tự do, vượt qua những rào cản cửa sắt nhà tù. Cuộc ngắm trăng này trở nên thi vị khi hai tâm hồn tri kỉ tìm đến với nhau: người- trăng.
Câu 4 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Hình ảnh Bác Hồ qua bài thơ:
+ Nổi bật tâm hồn thi sĩ lãng mạn, tinh tế.
+ Người tù- người chiến sĩ với sức mạnh tinh thần quả cảm, lạc quan.
+ Sau những vần thơ là tinh thần thép, tự do tự tại, phong thái ung dung vượt trên sự kìm kẹp của nhà tù.
→ Người tù cách mạng không màng tới những đói rét, xiềng xích… của nhà tù, trái lại, tâm hồn lãng mạn, thăng hoa cùng với vẻ đẹp của tự nhiên.
Câu 5 (trang 38 Ngữ Văn 8 Tập 2):
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét: “Thơ Bác đầy trăng”.
– Những bài thơ về trăng của Người: Trung thu, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Đêm thu…
– Trăng trong thơ của Bác có nhiều sắc vẻ, trạng thái khác nhau.
+ Trăng được cảm nhận ở hoàn cảnh ngục tù, hay giữa trời nước bao la, lúc bận việc quân, lúc thư nhàn…
+ Trăng hiện lên như tri âm, tri kỷ với Người
→ Người luôn hướng tới ánh sáng, sự tự do để đạt tới sự tự tại trong tâm hồn. Sự hòa quyện giữa Người với Trăng- tri kỷ- khiến cho thơ của Người luôn có sự hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại.